QĐND - Mỗi khi nhớ tới mối tình của cô giáo Tòng Thị Quyên và chiến sĩ biên phòng Tạ Đức Việt trong tôi lại muốn ngân lên câu hát “Ơ... anh bộ đội biên phòng ơi...” (bài "Giữ cho em mùa hoa đào" của nhạc sĩ Bảo Chung). Mối tình của họ đẹp lắm, nên thơ lắm và thêm nữa hạnh phúc lứa đôi của họ đầy căng sức sống như núi rừng Tây Bắc vậy.
Cách đây chừng mười hai năm, cô giáo Tòng Thị Quyên đang là sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Sơn La, Tạ Đức Việt đang là chiến sĩ thuộc Đại đội 1 Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng (BĐBP) tỉnh Sơn La. Hai người quen nhau qua những đêm lửa trại, những buổi giao lưu kết nghĩa của BĐBP với sinh viên sư phạm. Cô giáo hát hay, tay anh đàn giỏi, họ cảm mến nhau qua câu hát đó “Ơ... anh bộ đội biên phòng ơi”... “đôi mắt sáng nhìn chúng em cười tươi”... Và quả thực, nụ cười tươi của anh bộ đội biên phòng đã làm xao xuyến trái tim của các sinh viên sư phạm trẻ. Ánh mắt trao nhau, bàn tay run run ấm nóng nắm lấy bàn tay. Trái tim cô gái Mường Lạn bồi hồi, rồi vùng mở đón nhận lấy quả-còn-tình-yêu mà người chiến sĩ biên phòng gieo tới. Họ đã đến với nhau như thế.
Chiến sĩ Tạ Đức Việt quê ở làng Bảo Đà, phường Dữu Lâu, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Đây là một làng quê lâu đời và giàu truyền thống văn hiến. Dòng họ Tạ cũng là một dòng họ lâu đời của làng quê này. Theo gia phả họ Tạ ở Bảo Đà, Tạ Đức Việt là trưởng họ. Ở những làng quê Việt cổ, “vai vế” ấy thực lớn, trọng trách ấy thực sâu... Trường hợp của Tạ Đức Việt cũng không ngoại lệ. Anh có trách nhiệm của một người trưởng họ. Song, cũng giống như bao dòng họ giàu truyền thống yêu nước trên đất nước ta, dòng họ Tạ sẵn sàng gửi người con đầu, ưu tú nhất của mình đi phục vụ quân đội, thực hiện nghĩa vụ công dân một cách đầy trách nhiệm. Từ Việt Trì tới Sơn La là mấy trăm cây số nhưng cả họ dõi theo, cả họ ngóng chờ.
Còn Tòng Thị Quyên, người con gái dân tộc Thái, có cái đầu sáng, ý chí mạnh, quyết tâm cao của bản Nả Hản (xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp). Những năm cuối thế kỷ trước, núi rừng Sông Mã, Sốp Cộp còn âm u, mịt mờ nhưng cô gái của bản Nả Hản đã lội rừng, băng suối ra trung tâm thị trấn huyện học cái chữ, cô mang trong tim mình ước mơ sau này sẽ trở thành nhà giáo, đem cái chữ dạy các em nhỏ vùng sâu biên giới quê mình. Năm 1998, Tòng Thị Quyên từ chối suất học cử tuyển đào tạo giáo viên cấp tốc cho vùng sâu, vùng xa. Cô nghĩ: “Mình có sức học, có nghị lực, mình phải học sao cho đến đầu đến đũa có vậy mới dạy tốt cho các em nhỏ quê mình”. Bên cạnh ý nghĩ đó, Tòng Thị Quyên còn có một động lực khác đó là muốn làm tấm gương để học sinh quê mình noi theo vì thời đó mọi người còn tự ti lắm, sợ không học được, sợ cái chữ không vào. Quyết tâm đã giúp cô gái Thái quê hương Nả Hản thi đỗ vào Trường Cao đẳng Sư phạm Sơn La. Rồi cô gặp anh...
Đôi bạn trẻ như một cặp trời sinh đó đã yêu nhau và không thể có điều gì chia cắt nổi. Năm 2001, Tòng Thị Quyên tốt nghiệp Trường Cao đẳng Sư phạm Sơn La, quyết tâm trở về xây dựng quê hương. Chàng trai trưởng họ Tạ của Đất Tổ Vua Hùng cũng quyết tâm đi theo người mình yêu lên biên giới. Xây dựng biên giới giàu đẹp cũng là tâm nguyện và chí hướng của anh từ khi nhập ngũ. Anh xin được đi tăng cường đồn Mường Lạn. Cô được phân về dạy học ở Mường Lạn. Ước mơ đắp xây hạnh phúc lứa đôi của họ tưởng không gì ngăn cản nổi.
Thế nhưng, mọi cuộc tình đẹp dường như đều bị tạo hóa trêu ngươi, gây ra những gian nan không ngờ để thử thách tình yêu đó. Gần như cùng một lúc, gia đình của hai người phản đối cuộc hôn nhân này. Trong họ Tạ có người tỏ vẻ am tường nói: Trên vùng đó, con gái họ biết “chài”, ai bị “chài” đều trở thành ngớ ngẩn, cam tâm tình nguyện đi theo vào vùng rừng thiêng nước độc. Cả họ Tạ xôn xao, cha mẹ vật vã, tưởng như mất đi một người con độc đinh của gia đình. Thâm tâm nhiều người không tin rằng trên đời này có thứ gọi là “bùa yêu”, nhưng đầu óc cổ hủ khiến nhiều người trong dòng họ khó chấp nhận dâu trưởng của cả họ là một người miền ngược, dân tộc thiểu số. Cả nhà phản đối, cả họ phản đối... Về phía gia đình cô Quyên cũng vậy, cả bản nói rằng: Rồi nó sẽ theo chồng về xuôi thôi, xa xôi cách trở, như vậy là mất con rồi. Có người còn nói: Cái Quyên được cả bản thương yêu giúp đỡ từ củ sắn bắp ngô ăn học thành tài giờ nó đi về xuôi, bản mất người, quê mình mất cô giáo rồi. Cả bản phản đối, cả nhà phản đối...
 |
Cô giáo Tòng Thị Quyên (ngoài cùng, bên phải) cùng học sinh cũ là Mùa A Tủa đi thăm Trường Mường Lạn.
|
Trong những khó khăn tột cùng đó, đôi bạn trẻ Quyên, Việt đã tìm được một chỗ dựa. Đó là Ban chỉ huy Đồn Biên phòng Mường Lạn, là hội đồng giáo viên Trường Mường Lạn. Đám cưới của họ diễn ra không có sự hiện diện của gia đình hai bên nhưng thay vào đó có các thầy, cô giáo, có các anh bộ đội. Đám rước dâu tổ chức theo phong tục địa phương. Chú rể đến rước cô dâu từ trường về đồn biên phòng, cách nhau có mấy bước chân nhưng có bao nước mắt tuôn rơi trên con đường đất. Nước mắt của hạnh phúc, của nỗi tủi thân, của cả sự nhọc nhằn sau bao ngày vận động tuyên truyền cho hai họ nhưng không thành.
Hai vợ chồng Việt, Quyên được Ban chỉ huy Đồn Mường Lạn giúp đỡ dựng một căn nhà ngay sát bên đồn, lại được các giáo viên trong trường giúp đỡ những vật chất cần thiết cho một tổ ấm. Thấy căn nhà đó, thấy đôi lứa hạnh phúc đó, người dân bản Nả Hản đã có lòng tin, gia đình cô Quyên đã đến nhận lại con gái. Nhưng ở xuôi, mọi lo lắng, nghi ngờ đã ào ạt bung ra như nước vỡ bờ. Hai vợ chồng dắt nhau về ra mắt. Cả họ lánh mặt, gia đình anh lạnh nhạt. Cái tội dám cãi lời bố mẹ của một ông trưởng họ quả là khó dung tha. Đã bao đêm cô Quyên tấm tức khóc trên ngực chồng. Nhưng rồi đến sáng mai, cô lại tìm cho mình sự điềm tĩnh, thể hiện lòng hiếu thảo hết mực với cha mẹ chồng. Cả nhà đi cấy, cô xắn tay, xắn chân lội xuống bùn. Cô Quyên cười, nói với chúng tôi: “Không chỉ có cấy đâu nhé, em gặt cũng nhanh, gánh lúa cũng nhanh, qua mấy năm làm ruộng với ông bà, chẳng ai còn chê gái dân tộc thiểu số chỉ biết leo nương làm rẫy”.
Nhưng việc khó của một “bà” dâu trưởng không phải là chuyện làm nông, đó là tài tổ chức. Như đã biết, họ Tạ ở làng Bảo Đà rất đông, theo lệ những dịp lễ Tết đều quây quần bên nhà thờ họ. Dâu trưởng phải đóng được vai trò “chị cả”, chỉ đạo công việc, tổ chức tiệc tùng ăn uống. Đây là điểm mà người Kinh khác với người Thái. Cô Quyên đã rất lúng túng, việc nào cũng lăn xả vào làm, nhưng chẳng “ra ngô ra khoai” gì. Cô biết làm thế là không khoa học, phải cắt đặt công việc cho mọi người, còn “tổng chỉ huy” chỉ điều hành thôi. Cô thành thật thưa với họ, cháu còn trẻ người non dạ, mong cả họ thông cảm, nhưng vì là dâu trưởng, xin phép được cắt đặt việc như thế như kia... Mọi người nghe cũng xuôi tai, lại thấy cô ăn nói chững chạc chẳng có vẻ gì là gái miền núi, thêm nữa, việc cắt đặt công việc cũng là lẽ thường của dâu trưởng dòng họ, theo đúng tập tục dưới xuôi. Mọi người nghe, mọi người làm theo, bữa giỗ tổ họ diễn ra rôm rả. Có người bên chồng nói nhỏ với cô Quyên: "Lúc đầu tao cũng ghét mày, nhưng qua công việc mày làm, giờ tao quý mày rồi". Lời nói của một người già khó tính mộc mạc, gần gũi, mà cũng rất gai góc, bề trên, lại là nguồn động viên tinh thần lớn giúp cô Quyên “trưởng thành” trong vai trò dâu trưởng.
Khi cô Quyên kể với chúng tôi chuyện làm dâu ở miền xuôi, có rất nhiều chị em phụ nữ dân tộc Thái đều chăm chú lắng nghe. Mọi người đều bảo, người dân tộc Thái không để phụ nữ làm những công việc như thế, cô Quyên làm được như vậy thật ra rất tài.
Hai vợ chồng Quyên Việt giờ đã có hai cô con gái. Hai người sống thật hạnh phúc. Anh làm trong đội “vận động quần chúng” của đồn, cô được bổ nhiệm hiệu phó cách đây hai năm. Anh hay phải đi công tác xa ở các bản nằm kề đường biên, nhiều Tết cũng chẳng về được. Vậy là ba mẹ con dẫn nhau về quê nội ăn Tết. Lấy chồng đã 11 năm, cũng 11 cái Tết, 11 mùa hè Quyên về quê chồng làm “nhiệm vụ” dâu trưởng, dù có nhiều lúc, bụng mang dạ chửa, con nhỏ đường xa... Quyên nói: “Chỉ nhìn vào ánh mắt anh ấy là em biết anh muốn em làm vậy nên dù vất vả em cũng phải làm dâu để anh yên tâm công tác”.
Có được cô vợ hiền và gia đình hạnh phúc, thật đáng khen và đáng mừng cho đồng đội Tạ Đức Việt của chúng ta.
Bài và ảnh: Lê Đông Hà