Nửa năm cuối cùng của đời mình, cha tôi dành hầu như toàn bộ thời gian lấy tài liệu viết lại tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô. Cha tôi là nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, ông sinh năm 1912, mất năm 1960 do căn bệnh ung thư ác hiểm. Tờ lịch năm này của ông còn nguyên những khoanh tròn, những gạch chéo ông đánh dấu ngày tháng dự định gặp người này người nọ từng là nhân chứng cuộc chiến đấu bảo vệ Thủ đô để hỏi chuyện, thu thập tài liệu. Theo đó, ngày cuối cùng được dự kiến là 17-5, chỉ vài ngày trước khi ông phải nhập viện để rồi không bao giờ trở lại với đời nữa...

Cũng ở một trong hai cuốn sổ nhỏ cha tôi ghi lời kể của nhân chứng, ông cũng dự tính “Những ngày có thể làm việc”, theo đó, trừ ba ngày giữa tháng 4 họp Quốc hội, còn nhiều ngày đầu năm và cuối năm được dành cho công việc này. Ở cả hai cuốn sổ đó, ông đều có những ghi chép về Vũ Lăng, người chỉ huy nổi tiếng của Trung đoàn Thủ Đô nói riêng và của quân đội ta nói chung. Không chỉ ghi chuyện về cuộc đời Vũ Lăng, ông còn qua người bạn quân đội này ghi lại những vấn đề lớn như “Tình hình xã hội”, “Tình hình Hà Nội”, chuyện “Tác chiến” từ những trận đánh ác liệt bảo vệ Bắc Bộ phủ đến việc đưa đồng bào thoát ra khỏi Hà Nội khi các hướng tiến đánh của quân Pháp đã thít chặt Liên khu I... Đằng sau những sự tích hào hùng ấy là biết bao vấn đề phải giải quyết, những khó khăn phải vượt qua, trong đó có vấn đề con người – những vướng mắc về tư tưởng, những xung khắc có nguy cơ biến thành xung đột trong cán bộ chỉ huy, những cám dỗ về vật chất khiến người ta có thể bị tha hóa ngay trong lúc chiến đấu (rượu ngoại, thuốc lá tây, thậm chí cả... gái làm tiền vẫn còn rơi rớt giữa Hà Nội đổ nát!). Dường như cảm thấy chừng ấy vẫn chưa đầy đủ so với nguồn tư liệu phong phú ở một con người như Vũ Lăng, cha tôi còn trở lại với nhân chứng này một lần nữa, với hàng chục trang “Tiếp tục chuyện Vũ Lăng” ở cuốn sổ thứ hai. Lần này, người bạn quân đội kể với ông kĩ hơn về một số gương mặt cụ thể của Hà Nội những ngày ấy, trong đó có bộ đội, thợ thuyền, trẻ em (chẳng hạn em bé bán báo ở gần tòa Thị chính, sau xung phong vào làm liên lạc)... và cả một vị chỉ huy cấp khá cao thoái hóa biến chất, cuối cùng phải xử lý. Bên cạnh đó là một số sự kiện đặc biệt không thể không nói đến của Hà Nội sáu mươi ngày khói lửa: Trận Sauvage (nhà Xô-va), Lễ Quyết tử, Tiệc chiêu đãi năm mới có đủ các món đặc sắc nhất của Hà Nội hoa lệ khiến thực khách Anh, Mỹ, Tàu tấm tắc...

Liên quan đến những sự kiện ấy, có sự tham dự không nhỏ của Vũ Lăng, nguyên Đại đội phó Đại đội bảo vệ Bắc Bộ phủ, Ủy viên tác chiến khu Đông Kinh Nghĩa Thục, Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 103 – một trong ba tiểu đoàn của Trung đoàn Thủ Đô được thành lập trong chiến đấu. Song trong câu chuyện với cha tôi, Vũ Lăng ít nói về mình mà phần nhiều kể với ông những diễn biến phức tạp trong toàn bộ cuộc chiến cũng như ở mỗi con người. Cái bi xen lẫn cái hài, cái riêng xen lẫn cái chung, cái tầm thường xen lẫn cái hào hùng, cái khốc liệt của cuộc chiến xen lẫn nét hào hoa của người Hà Nội...

Chúng ta biết rằng, Thượng tướng Vũ Lăng sinh năm 1921 trong một gia đình lao động ở xã Ngũ Hiệp, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Ông sớm giác ngộ cách mạng, từng tham gia cướp kho thóc của Nhật và tham gia giành chính quyền ở Phủ Lý trước 19-8-1945. Cách mạng thành công, ông được cử đi học trường Quân chính khóa 5 tại Việt Nam học xá, rồi tham gia Nam tiến khi quân Pháp đánh chiếm Nam Bộ. Từ mặt trận Ninh Hòa ra, ông được cử về làm nhiệm vụ bảo vệ Bắc Bộ phủ, thường gọi là dinh Cụ. Trưởng thành trong chiến đấu, ông lần lượt qua các cấp chỉ huy đại đội, rồi tiểu đoàn trong Trung đoàn Thủ Đô oanh liệt. Ngày 14-1-1947, tại rạp Tố Như, Vũ Lăng được vinh dự đại diện cho những người lính tình nguyện tuyên thệ “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Tài chỉ huy của ông thể hiện rõ trong những trận đánh nổi tiếng nhất ở mặt trận Hà Nội – trận nhà Xô-va và Trường Ke... Ông cũng là người được giao nhiệm vụ đưa ba nghìn đồng bào bí mật vượt qua chân cầu Long Biên thoát ra vùng tự do. Sau khi Hà Nội đã hoàn thành nhiệm vụ giam chân giặc, ông cùng đồng đội rút khỏi thành phố lên Việt Bắc tiếp tục kháng chiến. Hòa bình lập lại, ông được cử đi học tại Học viện Quân sự Bộ Tổng tham mưu Liên Xô, từ tháng 4-1956 đến tháng 6-1959. Về nước, ông làm Viện phó Viện khoa học quân sự Bộ Quốc phòng...

Lý lịch trích ngang của Thượng tướng Vũ Lăng sẽ còn dài nhiều nữa, với biết bao võ công chiến tích cho đến tận năm 1988, khi ông mất. Tuy nhiên, điều tôi muốn được lưu ý bạn đọc là, khoảng thời gian ông đi Liên Xô cũng chính là thời điểm cha tôi dồn tâm sức viết đi viết lại tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô. Viết xong, sửa lại, vẫn thấy không như ý, ông quyết tâm gác lại, tiếp tục suy nghĩ, lấy tài liệu, bao giờ đủ chín mới lại bắt tay vào việc. Chắc chắn cha tôi đã rất mừng khi được tin Vũ Lăng về nước. Tiếc thay, tuy đã được gặp, được trò chuyện, được ghi lại hàng chục trang tư liệu từ người bạn là sĩ quan quân đội này, những tư liệu chắc chắn đã gợi ra nhiều ý tưởng mới cho cuốn tiểu thuyết của ông, thì cha tôi lại không qua khỏi căn bệnh ung thư, khi còn chưa bắt tay viết lại tác phẩm dù chỉ một dòng, để lại bản thảo tiểu thuyết ở dạng dở dang, chưa được như ý như nó đã dừng lại từ hai năm trước đó...

Đối với tôi, kết cục đáng tiếc này lẽ ra mãi vẫn là một câu chuyện buồn của cha tôi, là nỗi tiếc nuối cho biết bao công sức của ông, là cảm giác bất nhẫn mỗi khi nghĩ đến nhiều nhân chứng đã không có dịp được hóa thân trong tác phẩm của ông. Những Vũ Lăng, Vũ Yên, Bùi Nguyên Cát, Vũ Văn Sự, Bùi Ngọc Bản, Vũ Kiểm, Nguyễn Văn Phúc, Ngô Đặng Tuất, An Ngọc Tỉnh... – đấy mới chỉ là một số những cái tên xuất hiện trong hai cuốn sổ ghi chép nói trên của cha tôi. Như một sự đồng cảm, tác giả Nguyễn Viết Sơn trong bài viết về Thiếu tướng Vũ Yên trên Nguyệt san Sự kiện và Nhân chứng số Xuân Đinh Sửu 1997, có nói về việc nhà văn Nguyễn Huy Tưởng trong quá trình viết Sống mãi với Thủ đô cũng đã “nhiều lần đến thăm Đại đoàn trưởng Vũ Yên với ý định tái hiện ông qua một nhân vật văn học. Tiếc thay tác giả Sống mãi với Thủ đô đã ra đi quá sớm nên việc đó không thành”...

Nhân dân Hà Nội chào đón bộ đội về tiếp quản Thủ đô. Ảnh tư liệu

Vâng, tôi cũng đã nghĩ như thế về tướng Vũ Yên cũng như về tướng Vũ Lăng. Cho đến một ngày, không biết ở lần đọc Sống mãi với Thủ đô thứ bao nhiêu, và qua những gì tôi đọc được về tướng Vũ Lăng ngày một nhiều, tôi chợt nhận ra, chính ông đã hiện diện trong tác phẩm của cha tôi, qua một nhân vật rất cụ thể. Đó là Văn Việt, người Ủy viên quân sự khu Đông Kinh Nghĩa Thục! Đúng hơn, đó là một số những hồi quang về vị tướng được chiếu xạ qua nhân vật này. Cũng như “nguyên mẫu” Vũ Lăng, Văn Việt từng được đào tạo về quân sự (học trường võ bị Trần Quốc Tuấn); từng đi Nam tiến, đóng trung đội phó, cũng ở mặt trận Ninh Hòa; từng được giao bảo vệ dinh Cụ; từng là người đầu tiên nhận ra vị trí quan trọng của nhà Xô-va, nơi sẽ diễn ra những trận đánh ác liệt, giành đi giật lại giữa ta và địch... Cũng như “nguyên mẫu” Vũ Lăng, Văn Việt là một chỉ huy nóng như lửa. Bạn đọc Sự kiện và Nhân chứng hẳn còn nhớ câu chuyện tướng Nguyễn Quốc Thước kể về vị tướng “Trương Phi” – tướng Vũ Lăng – đã quát mắng mình ầm ầm trong trận A Sầu cuối năm 1965 (SK&NC, tháng 8-2008); bạn đọc Sống mãi với Thủ đô hẳn cũng khó quên cảnh Văn Việt thẳng tay giáng một cái tát nảy đom đóm mắt lên Quốc Vinh, Chủ tịch Ủy ban bảo vệ khu Đông Kinh Nghĩa Thục, cấp trên của mình (may sao, ở cả hai trường hợp đều là do hiểu nhầm!). Ngay đến tính cách, thậm chí cả ngoại hình, giữa hai người cũng có nhiều cái giống. Cũng như “nguyên mẫu” Vũ Lăng, Văn Việt dáng người nho nhã, thích thơ, rượu, nói chuyện có duyên. Thượng tướng Vũ Lăng, như được tả trong cuốn Thư tình từ chiến hào (Nxb QĐND, 2006) là người “quần áo bảnh bao, đầu tóc chải chuốt, sành rượu Tây như một chàng công tử Hà Nội hào hoa phong nhã”; còn Văn Việt trong Sống mãi với Thủ đô thì “dáng người nho nhã, kiểu cách, gọn ghẽ trong chiếc bờ-lu-dông tím... nước da trắng, phơn phớt đỏ – anh vừa mới làm một tợp rượu khô”. Cũng trong cuốn tiểu thuyết của cha tôi, có một chi tiết tả Văn Việt mà tôi nhớ mãi: “Bộ râu quai nón được cạo nhẵn xanh rờn như mặt đá mài suốt từ mang tai đến cằm”; những ai từng biết Thượng tướng Vũ Lăng – “ông Lăng râu xồm” như cán bộ, chiến sĩ vẫn gọi – hẳn không thể quên hình ảnh “râu ria mọc ra tua tủa không kịp cạo” ở người chỉ huy của mình, nhưng khi đã cạo thì luôn được cạo nhẵn, chỉ còn ánh xanh đen, như trong bức ảnh ông chụp năm 1956 ở Liên Xô... Không nghi ngờ gì nữa, nhân vật Văn Việt chính là phản ánh của một nguyên mẫu có thật: Vũ Lăng!

Cha tôi biết Vũ Lăng từ bao giờ, tôi không dám chắc. Nhưng ông bắt đầu ghi nhật ký về người bạn bộ đội này từ hồi Chiến dịch Biên Giới. Khi ấy Vũ Lăng là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 54, còn cha tôi đại diện cho Hội Văn nghệ Trung ương tham gia phản ánh chiến dịch. Ngày 6-10-1950, ông ghi: “Vũ Lăng bị xé quân, ngồi bên Hùng Sơn mách nước”. Bấy giờ địch đã ở vào thế thua, nhưng vẫn còn chống trả quyết liệt. Đúng một tháng sau, ngày 6-11, khi chiến thắng đã về ta, ông lại có dịp ngồi uống rượu với Vũ Lăng. Có lẽ đó là một cuộc tâm giao giữa hai tâm hồn đồng điệu – hai người cùng quê Hà Nội, cùng tha thiết với Trung đoàn Thủ Đô, cùng đang có vấn đề về tình cảm (cha tôi xa vợ con đã mấy năm, còn Vũ Lăng thì đang được người làm mối với một cô quân y sĩ). Và cha tôi ghi lại: “Anh chàng nhớ Thái Nguyên và người yêu. Ngồi bên bếp lửa, nói chuyện. Về Đảng, về đàn bà… Chiến dịch liên miên. Giận về nỗi (Trung đoàn) 102 không được đề bạt. (Tiểu đoàn) 54 hy sinh nhiều”…

Ngược dòng thời gian một năm trước đấy, cuối năm 1949, Hội Văn nghệ Việt Nam đã nhận đỡ đầu Tiểu đoàn Bình Ca, chính là Tiểu đoàn 54 thuộc Trung đoàn Thủ Đô của Vũ Lăng. Giờ thì tôi đã có thể tin chắc, sự kiện này đã được tác thành từ hai phía, một bên là cha tôi và những người bạn văn nghệ thân thiết với Trung đoàn Thủ Đô, và phía bên kia là chàng sĩ quan Hà Nội hào hoa Vũ Lăng và những tên tuổi cũng rất gắn bó với văn nghệ, như Vương Thừa Vũ, Cao Văn Khánh, Vũ Yên…

Vậy là đã rõ. Tình thân đã nảy nở giữa cha tôi và tướng Vũ Lăng từ trong kháng chiến và có thể vào một đêm thức tâm sự bên chén rượu, Vũ Lăng đã kể cho cha tôi nhiều chuyện đời mình. Sau này, khi viết Sống mãi với Thủ đô, ông đã đưa một cách thật tự nhiên hình ảnh người bạn là sĩ quan quân đội thân thiết của mình vào trong tác phẩm. Đến khi ông quyết định viết lại, vừa hay Vũ Lăng mới ở Liên Xô về, ông đã không bỏ qua cơ hội tìm gặp để hỏi chuyện cho cặn kẽ. Tiếc là cha tôi đã sớm đi xa, trước khi kịp làm những gì mong muốn cho tác phẩm và nhân vật của mình, với một Vũ Lăng chắc chắn phải đậm nét hơn nhiều…

NGUYỄN HUY THẮNG