Nợ nước ngoài trong giới hạn cho phép

Theo báo cáo của Đoàn Giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý và sử dụng vốn vay nước ngoài giai đoạn 2011-2016 do Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Đức Hải, Trưởng đoàn giám sát, trình bày trước UBTVQH chiều 9-8: Giai đoạn 2011-2016 đã có 319 hiệp định ODA được ký kết với tổng trị giá đạt khoảng 33,643 tỷ USD, cao hơn 59% so với mức của thời kỳ 2006-2010. Trong đó, ODA vốn vay và vốn vay ưu đãi đạt 32,296 tỷ USD, chiếm khoảng 96% và ODA viện trợ không hoàn lại đạt 1,346 tỷ USD chiếm khoảng 4%. Phần sử dụng để cấp phát cho các chương trình, dự án đầu tư không có khả năng hoàn vốn thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách Nhà nước (NSNN) khoảng 21,5 tỷ USD, chiếm 65% tổng giá trị ký kết; cho vay lại khoảng 11,8 tỷ USD, chiếm 35% giá trị ký kết. Bình quân trong giai đoạn 2011-2016, vốn ODA và vay ưu đãi nước ngoài chiếm 37,6% tổng chi đầu tư phát triển từ NSNN cho thấy vai trò quan trọng của nguồn lực vay ODA và ưu đãi nước ngoài. 

Đường cao tốc Hà Nội-Lào Cai, dự án sử dụng vốn vay ODA, góp phần thúc đẩy kinh tế-xã hội các tỉnh miền núi phía Bắc. Ảnh: TRỌNG HẢI

Về dư nợ, đến ngày 31-12-2016, nợ nước ngoài của quốc gia là 44,3% GDP, trong giới hạn cho phép không quá 50% GDP theo nghị quyết của Quốc hội. Giải ngân trong giai đoạn này đạt khoảng 28 tỷ USD (tương đương khoảng 560 nghìn tỷ VND), trong đó giải ngân nguồn vốn vay ODA là 23,2 tỷ USD-chiếm 82,3%, giải ngân vốn vay ưu đãi là 3,2 tỷ USD-chiếm 11%, giải ngân vay thương mại là 1,7 tỷ USD-chiếm khoảng 6%.

Báo cáo của Chính phủ cho thấy, việc trả nợ các khoản vay nước ngoài của Chính phủ về cơ bản được thực hiện chặt chẽ, đúng hạn, bao gồm cả nghĩa vụ nợ trực tiếp của Chính phủ và nghĩa vụ nợ cho vay lại, không để xảy ra tình trạng nợ quá hạn ảnh hưởng tới cam kết, góp phần giúp Chính phủ từng bước cải thiện hệ số tín nhiệm quốc gia.

Góp phần hiện đại hóa hạ tầng, giảm nghèo bền vững

Theo đánh giá của Đoàn giám sát, nguồn vốn ODA đã góp phần quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống người dân, đóng góp đáng kể vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; đẩy mạnh đào tạo, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, góp phần phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ, tiếp thu khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước phát triển...

Nhiều công trình, dự án trọng điểm quốc gia sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi trong các lĩnh vực giao thông, thủy lợi, năng lượng, môi trường... đã hoàn thành, được đưa vào khai thác, góp phần hoàn chỉnh, hiện đại hóa hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội. Một phần quan trọng nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi, nhất là vốn viện trợ không hoàn lại được sử dụng để hỗ trợ giảm nghèo bền vững thông qua Chương trình 135 giai đoạn II, dự án phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn quy mô nhỏ ở các tỉnh miền núi phía Bắc và một số tỉnh Tây Nguyên; một số dự án tạo lập sinh kế cho người nghèo nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số ở một số địa phương, như: Dự án phát triển nông nghiệp miền tây Nghệ An; các dự án trong lĩnh vực y tế, giáo dục, khoa học công nghệ... 

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) Hoàng Văn Thắng cho biết, gần đây nhất, Bộ NN&PTNT quản lý hai dự án sử dụng vốn ODA là dự án cấp nước sạch miền Trung và dự án nước sạch cho 8 tỉnh Đồng bằng sông Hồng. Cả hai dự án này đều hoạt động bền vững và có hiệu quả cao, giúp mang lại nước sạch và vệ sinh môi trường cho người dân ở các địa phương được thụ hưởng, nhất là ở 8 tỉnh Đồng bằng sông Hồng vốn có mạch nước ngầm bị nhiễm ASEN rất nặng.

Phó chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển đánh giá, tính hiệu quả của các dự án ODA triển khai tại Việt Nam chính là một trong những căn cứ để các quốc gia và các định chế tài chính tài trợ ODA đánh giá cao về mức tín nhiệm của Việt Nam. Sự sẵn sàng cung cấp ODA và kết quả ký kết hiệp định tài trợ ODA với Việt Nam giai đoạn này tăng 59% với giai đoạn 2006-2010 đã chứng minh điều đó.

Tăng cường công khai, minh bạch và nâng hiệu quả sử dụng vốn ODA

Tuy đánh giá cao hiệu quả của việc sử dụng các nguồn vốn ODA, nhưng Đoàn giám sát và UBTVQH cũng chỉ ra một số bất cập, hạn chế trong công tác quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA. Đó là công tác xây dựng kế hoạch, phân bổ vốn trong nhiều trường hợp chưa sát với nhu cầu thực tế; chất lượng chuẩn bị một số dự án chưa đáp ứng yêu cầu, gây lãng phí, hiệu quả thấp; chất lượng, năng lực triển khai một số dự án chưa cao, việc bố trí vốn đối ứng ở nhiều địa phương chưa đầy đủ, chưa kịp thời, do vậy, khả năng hấp thụ vốn ODA chưa cao; một số dự án khó khăn trong thực hiện nghĩa vụ trả nợ; công tác giám sát, đánh giá hiệu quả dự án chưa thường xuyên; hiệu quả sử dụng nguồn lực ODA ở một số dự án chưa cao trong khi chi phí bỏ ra cho dự án ODA rất lớn...

Tổng thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc cho rằng, một trong những nguyên nhân dẫn tới chi phí đầu vào các dự án ODA rất cao là do các nhà tư vấn nước ngoài thường áp dụng hệ số an toàn rất cao, trong các công trình xây dựng có trường hợp gấp hai lần tiêu chuẩn do Bộ Xây dựng ban hành, trong khi Việt Nam ít có động đất. Cùng với đó, thời gian từ khi lập dự án cho đến khi hoàn thành thường rất dài, 5-6 năm. Vì vậy, trang thiết bị khi lập dự án là hiện đại, đến khi hoàn thiện dự án trở thành lạc hậu, dẫn tới hiệu quả của dự án không cao. Điều này thể hiện rất rõ ở các dự án phải sử dụng công nghệ cao, công nghệ số. Để giải quyết vấn đề này, Tổng thư ký Quốc hội đề nghị chú trọng việc đàm phán để hạn chế việc bị áp đặt điều kiện-nhất là điều kiện về nhà thầu, trang thiết bị và nhà cung cấp trang thiết bị-của nhà tài trợ ODA.

Phó chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh nêu thực trạng chênh lệch giữa các vùng, miền, địa phương trong việc phân bổ nguồn vốn ODA và đề nghị bảo đảm tính công khai, công bằng cao hơn khi phân bổ nguồn vốn ODA trong thời gian tới.

Do là nước đang phát triển, chắc chắn Việt Nam sẽ vẫn còn nhu cầu nhận tài trợ ODA để phát triển kinh tế-xã hội. Đoàn giám sát và UBTVQH đề nghị phải sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật; chấn chỉnh nhận thức vốn vay ODA là được cấp nên sử dụng thoải mái; chấn chỉnh công tác quản lý vốn ODA và khắc phục những bất cập, hạn chế để việc quản lý, sử dụng ODA đạt hiệu quả cao hơn…

 CHIẾN THẮNG