 |
Bác Hồ tiếp các nhà báo nước ngoài.
Ảnh:Tư liệu |
Khoảng đầu thập niên 80, thế kỷ hai mươi, tình cờ tôi được gặp nhà văn Nguyễn Đình Thi trong một bữa tiệc tại thành phố Hồ Chí Minh.
Tôi nói với ông về bản thảo luận văn sau đại học của tôi nhan đề Đất Việt yêu dấu ngàn năm và tác phẩm Nguyễn Đình Thi. Nhân đó, tôi hỏi nhà thơ về việc ông được gặp Bác Hồ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp lần đầu tiên ở Quốc dân Đại hội Tân Trào 1945 như thế nào. Cũng nhân trả lời chuyện này, ông cho biết: Tập thơ Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh đã được một nhà báo kiêm một nhà nghiên cứu người Mỹ giới thiệu ở Ca-na-đa và Mỹ.
Tôi không kịp hỏi thêm vì cùng lúc đó có nhiều người đến chào hoặc bắt tay hoặc thăm hỏi nhà thơ.
*
* *
Mấy năm sau, vào cuối năm 1986, ra Hà Nội tôi gặp Nguyễn Đình Thi và được ông kể lại câu chuyện nói trên về tập thơ Nhật ký trong tù.
Nhíu cặp lông mày rậm trong vài giây, sau đó, tác giả Nguyễn Trãi ở Đông Quan từ từ kể lại:
- Tháng Giêng năm 1967, cách đây mười chín năm, tại Hà Nội, dưới bom đạn của không lực Mỹ, tôi được tiếp xúc với một người Mỹ.
Đó là Ha-rít-xơn Xa-lít-xba-ri (Harrison S.Salisbury), nhà báo kiêm nhà nghiên cứu.
Ha-rít-xơn là một người say mê với nghề làm báo và công việc nghiên cứu. Ông rất quan tâm đến chiến tranh Việt-Mỹ tại Việt Nam, mặc dầu ông chưa sang Việt Nam lần nào và chưa được đọc nhiều tài liệu hoặc sách báo về Việt Nam.
Năm 1966, khi chiến tranh leo thang của không quân Mỹ mở rộng khắp miền Bắc nước ta, ông lập tức sang Việt Nam để lấy tư liệu sống động cho nghề viết báo của mình.
Hồi ấy, chúng ta kiểm tra rất chặt việc tiếp nhận các nhà báo thuộc khối tư bản chủ nghĩa vào Việt Nam để tìm hiểu thực tế và viết bài. Tuy nhiên, vượt qua mọi trở ngại chủ quan và khách quan, Ha-rít-xơn, cuối cùng, cũng đã xin được giấy phép nhập cảnh Việt Nam và trở thành nhà báo đầu tiên của khối tư bản chủ nghĩa được Chính phủ ta cho phép vào Thủ đô Hà Nội tháng Giêng 1967.
Ông quan sát và tìm hiểu kỹ lưỡng cuộc sống “sẵn sàng chiến đấu, chuẩn bị chiến đấu, chiến đấu và sản xuất” của quân dân Thủ đô. Ông cũng đến tận nhiều làng xã-huyện-tỉnh trên miền Bắc trong đó có Bùi Chu và Phát Diệm, những vùng theo đạo Thiên chúa để tận mắt quan sát và tìm hiểu cuộc sống-cuộc chiến đấu và tình hình sản xuất của những vùng đó trong cuộc chống Mỹ cứu nước.
Những chuyến đi nói trên của Ha-rít-xơn là biểu tượng can đảm và cảm động của một nhà báo-nhà nghiên cứu đầu tiên ở khối tư bản chủ nghĩa tự nguyện đến chia lửa với nhân dân miền Bắc, với hậu phương lớn vào những năm đầu tiên của cuộc chiến tranh leo thang phá hoại của không quân Mỹ trên miền Bắc nước ta.
Ha-rít-xơn hỏi tôi một số vấn đề về văn hóa Việt Nam và văn học Việt Nam trong chiều dài hàng nghìn năm lịch sử. Tôi đã giới thiệu vắn tắt và sơ lược cho ông những đặc điểm cơ bản của văn hóa-văn học Việt Nam từ thời Hai Bà Trưng tới lúc ấy (1967). Đó là tính yêu nước mang đặc tính Việt Nam, tính nhân văn mang đặc tính Việt Nam, tính chiến đấu mang đặc tính Việt Nam và tính dân tộc Việt Nam trong cuộc vật lộn cực kỳ gian nan, dũng cảm và sáng tạo của toàn dân Việt Nam, nhất là của các danh nho, các đại danh nho và các trí thức Tây học chống lại ảnh hưởng của phong kiến nước ngoài và chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc phương Tây.
Ha-rít-xơn còn dành thời gian hỏi tôi về Hồ Chí Minh và tập thơ Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh mà ông mới được biết một cách sơ lược.
Tôi giới thiệu vắn tắt với ông những điểm rất cơ bản về tư tưởng yêu nước, tư tưởng đại đoàn kết toàn dân và tinh thần quốc tế của Hồ Chí Minh. Tôi cũng giới thiệu ngắn gọn những nét đặc sắc trong bản dịch ra tiếng Pháp của tiến sĩ luật sư danh tiếng Phan Nhuận, một trong những Việt kiều yêu nước hàng đầu ở Pháp ngay từ khoảng Cách mạng Tháng Tám 1945. Anh Phan Nhuận đã từng tốt nghiệp đại học Xoóc-bon (Sorbone), Pa-ri (Paris).
Cuộc trò chuyện và gặp gỡ nói trên tạo cho tôi một ấn tượng đẹp về Ha-rít-xơn, con người khiêm tốn và can đảm, nhà báo-nhà nghiên cứu đầu tiên của Mỹ và của khối tư bản chủ nghĩa sang tìm hiểu bước đầu về cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta và sự đóng góp vô cùng to lớn về người, về của của nhân dân miền Bắc đối với miền Nam hồi ấy.
Tôi đã tặng Ha-rít-xơn một tập Nhật ký trong tù (bản dịch nghĩa và dịch thơ của Viện Văn học-Hà Nội).
Im lặng một lát như để nhớ về những tháng năm lửa đạn chống Mỹ cứu nước, Nguyễn Đình Thi kể tiếp:
- Khoảng mấy năm sau, qua một người bạn Pháp, tôi nhận được mấy số báo phương Tây. Tôi không nhớ tên báo. Tôi chỉ nhớ trong mấy số đó có các bài viết của Ha-rít-xơn giới thiệu hình ảnh nhân dân Hà Nội, nhân dân Bùi Chu, Phát Diệm (Ninh Bình) và nhân dân một số làng quê miền Bắc bình tĩnh sản xuất, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu chống chiến tranh leo thang của Mỹ. Tôi không thể quên một tờ báo trong số các tờ mà tôi nhận được nói trên có in hình ảnh nhân dân một làng quê miền Bắc đang đẩy xe đạp thồ và đội thóc gạo đi trên một chiếc cầu ọp ẹp để chuyển lương thực ra tiền tuyến. Tấm ảnh đó do Ha-rít-xơn chụp và đăng kèm theo các bài viết của ông.
Sau thời điểm nhận được mấy số báo nói trên khoảng mấy năm, tới khoảng 1972, vẫn qua người bạn Pháp đó, tôi nhận được một cuốn sách nhỏ và mỏng, chiều dài chừng 20cm, chiều rộng chừng 13cm. Bìa màu trắng dày và đẹp. Trên bìa, in trang trọng hình gương mặt Bác Hồ kèm theo dòng chữ tiếng Anh Prison diary (Nhật ký trong tù). Sách do NXB Ban-tam (Bantam) của Mỹ xuất bản tại Mỹ và Ca-na-đa năm 1971.
Bên trong cuốn sách là lời giới thiệu bằng tiếng Anh do chính Ha-rít-xơn viết. Tôi đọc lời giới thiệu này qua bản dịch tiếng Pháp gài kèm cuốn sách do người bạn Pháp nói trên dịch sẵn.
Đó là một bài giới thiệu trong sáng, sâu sắc, lôi cuốn và ngắn gọn. Ha-rít-xơn, tác giả của nó, tỏ rõ sự am hiểu một số đặc điểm nổi bật của phong cách Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh trong cuộc sống, trong cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc và trong tập thơ Nhật ký trong tù.
Trong cuốn sách, tiếp theo bài viết nói trên, Ha-rít-xơn cho in lại toàn văn bản dịch Nhật ký trong tù ra tiếng Anh nhan đề Prison diary của Ai-lin Pan-mơ (Aileen Palmer – NXB Ngoại Văn – Hà Nội –1966). Trong bản này, Pan-mơ đã dịch ra tiếng Anh bài giới thiệu tập thơ Nhật ký trong tù do Phan Nhuận viết bằng tiếng Pháp và dịch ra tiếng Anh toàn bộ tập thơ Nhật ký trong tù qua bản dịch tiếng Pháp của Phan Nhuận.
Nguyễn Đình Thi giải thích thêm: bản dịch ra tiếng Pháp của Phan Nhuận thì căn cứ vào bản dịch nghĩa tiếng Việt và bản dịch thơ tiếng Việt của Viện Văn học Hà Nội – 1960.
Ha-rít-xơn đã mang bản dịch ra tiếng Anh của Pan-mơ về Mỹ sau chuyến đi Hà Nội đầu năm 1967 nói trên.
Giọng Nguyễn Đình Thi trong, ấm và truyền cảm khi ông đọc cả bốn câu C’est ton corp qui est en prison/Ton esprit n’est pas en prison/Pour mener ta grande entreprise/Tu dois garder ton morale bon.
Nguyễn Đình Thi đọc liên tục hai lần.
Ông nói đại ý: dịch như thế vừa có chất thơ vừa diễn tả được sâu sắc cái thần của nguyên tác. Cả bốn câu dịch đều mười phân vẹn mười nhưng hay nhất chính là lời dịch câu cuối cùng “Tu dois garder ton morale bon”. Dịch câu cuối cùng như thế thì ai cũng phải chịu là giỏi. Tiến sĩ luật sư Phan Nhuận hiểu thấu câu thơ chữ Hán Tinh thần cánh yếu đại (tinh thần càng phải cao) và hiểu thấu ngôn ngữ thơ Pháp cho nên câu này anh Phan Nhuận dịch là Tu dois garder ton morale bon, nhờ vậy tư tưởng của bài thơ và chất thơ của bài thơ quyện chặt vào nhau và tỏa sáng khắp bài thơ.
Nguyễn Đình Thi nói tiếp:
- Bài thơ này, dưới tay một nhạc sĩ tài giỏi, có thể dựng thành một nhạc cảnh sinh động.
Chính Văn Cao vào khoảng những năm 1970, 1971 đã mấy lần tâm sự với tôi (Nguyễn Đình Thi) là anh rất muốn sáng tác một tổ khúc âm nhạc về bài thơ bốn câu năm chữ nói trên và đặt nhan đề Cánh hạc.
Nhíu cặp lông mày rậm, nhà thơ trầm tĩnh tâm sự với tôi:
- Anh Phan Nhuận dịch bài Học đánh cờ (Học dịch kỳ) cũng kỳ công và thành công như bài thơ mở đầu tập thơ mà tôi vừa nói ở trên.
Cái hay của bài-thơ-tư-tưởng này của Hồ Chí Minh đã được Phan Nhuận diễn tả bằng một loạt từ ngữ Pháp vừa giản dị, vừa trong sáng, vừa sâu sắc và đầy chất thơ.
Cái hay này phải cỡ các bậc thầy cách mạng như chính tác giả Hồ Chí Minh, rồi đến Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp và phải cỡ các bậc thầy tiếng Pháp như Nguyễn Mạnh Tường, Phạm Huy Thông, Trần Đức Thảo, Đoàn Phú Tứ v.v.. mới hiểu hết.
Rất tiếc, cuốn sách và các bài báo nói trên của Ha-rít-xơn, tôi đã để thất lạc.
Anh nên tìm bài giới thiệu của Ha-rít-xơn và các bài báo khác của ông mà tôi đã nói ở trên để dịch ra tiếng Việt. Đó là những tư liệu bổ ích viết về nhà-thơ-tư-tưởng Hồ Chí Minh và về cuộc kháng chiến vang dội thế kỷ hai mươi này của dân tộc.
Tác giả Con nai đen kết luận:
- Phải ghi công cho Ha-rít-xơn – nhà báo-nhà nghiên cứu. Chính ông là người Mỹ đầu tiên, với tư cách là một nhà báo tự do, trong lửa đạn chống Mỹ cứu nước đã đến với Hà Nội yêu dấu và các làng quê miền Bắc nghèo nàn nhưng sáng tạo và kiên cường để chia lửa với Việt Nam.
Hai năm sau, tức năm 1988, tôi (Nhật Hoa Khanh) đã sưu tầm được cuốn Nhật ký trong tù bản dịch tiếng Anh của Pan-mơ với lời giới thiệu của Ha-rít-xơn.
Và, theo đúng gợi ý của Nguyễn Đình Thi, tôi đã dịch lời giới thiệu đó ra tiếng Việt.
Nhật Hoa Khanh