"Khách từ ngoài Thủ đô vô mệ ạ! Mệ hát vài câu chào mừng đi!"-o Hạnh nói.
Bà chào tôi rồi ngồi xuống góc chiếu: "Thì chào hí!".
Hai tay vỗ nhịp, chọn lời, bà cất tiếng hò: "Ơ hơ, xin mời các bạn xố con/ Khách mới đến nhà từ ngoài Hà Nội/ Đường ngái bái xa cũng lội mà vô/ Đến đây câu hát câu hò/ Sâu sông mà cũng lội, đầy đò mà cũng cứ qua".
Chúng tôi cứ từng đoạn mà xố theo. Bà vỗ vai tôi mạnh như phát vậy: "Cậu xố được rồi à?".
O Hạnh nói: "Thầy giáo đó nghe. Vô giúp hò khoan Lệ Thủy nhà miềng đó. Mệ hát bài thầy giáo đi".
Bà cất lời ngay: "Ơ hơ… Thầy giáo đàng ngoài về cùng Lệ Thủy/ Thầy dạy trò ngoan rồi quyết chí lên đường/ Làm trai hồ thủy bốn phương/ Chúc thầy mạnh khỏe thuận đường vinh danh".
Tôi nói: “Hồ thỉ” mệ ạ!".
Bà nói ngay: "Ở đây chúng tôi cứ hồ thủy mà hát!".
Tôi giật mình nghĩ về cái bệnh nhà giáo của mình, vội liên tưởng ngay đến “thiền quang-thuyền quang”, “trực tiết-chực tuyết” trong ngôn ngữ dân gian. Biết rồi mà vẫn láu nói.
Gặp bà, tôi bắt đầu chạm đến cái gọi là hò bắt mẹng (miệng) tại chỗ trong diễn xướng hò khoan Lệ Thủy. Hình như tôi đang được tiếp xúc với nghệ nhân mang truyền thống ứng tác cổ xưa còn sót lại.
Từ đó thành chỗ đi lại. Càng quen, tôi càng ngạc nhiên về kho tàng hò khoan chất chứa trong tâm trí bà. Bà bắt tôi gọi chị và kêu tôi là cậu rất thân ái. Cũng đúng thôi, bà khi đó 79 còn tôi cũng đã 62 tuổi rồi.
Sức nhớ của bà quả là đáng kinh ngạc. Những câu hò, điệu hát cách đây hơn 60 năm bà thuộc vanh vách. Bà đưa tôi về không khí tổ đổi công, không khí “ngày Bắc đêm Nam” trước năm 1960, khí thế sôi sục trong những ngày đầu đánh Mỹ qua câu hò, điệu hát.
Còn với những câu hát cổ thì không sót một loại nào, từ nhân tình nhân ngãi, đối đáp bắt mẹng, phụ từ tử hiếu, đố chữ đố vật, truyện Nhị thập tứ hiếu, truyện Sãi-Vãi, hò đưa linh chèo cạn… Hỏi đến đâu có đến đó.
Mọi việc trong nhà, nuôi dạy cháu con bà đều dùng hò khoan. Đêm 30 Tết, bà dành cho mỗi đứa mấy câu hò lục bát. Chuyện làng chuyện nước, bà dùng hò khoan ghi lại, chào mừng. Ơn nghĩa với ai, bà cũng lấy vần thơ ghi tạc. Tôi nhắc bà ghi lấy để lại cho con cháu sau này.
Kỷ niệm gần đây là vào tháng bảy năm nay, được nhiều phóng viên, đồng môn góp kinh phí để quảng bá hò khoan Lệ Thủy tại Liên hiệp Hội Văn học nghệ thuật Hà Nội, dư ra một ít, tôi mời các nghệ nhân già tham quan Hà Nội, vào Lăng viếng Bác, thăm viếng nhà Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Các cụ một đời đều đây là lần đầu tiên đến Thủ đô. Thật là ý nghĩa.
Cái đêm trong Nhà khách Chính phủ ở 37 Hùng Vương, bà tâm sự sâu hơn về cuộc đời: "Tui con nhà Nho, nhà có kinh tế tàm tạm. Bố mẹ có cho đi hát mô. Nhưng sống trong không khí hò khoan cả làng cả tổng, tui thục và nhớ lắm. Đêm hát, tui ngồi “bắt mẹng” cho họ, giúp cho câu hát suôn sẻ, đối đãi với nhau. Mà tui biết xem tướng đó nghe. Người khỏe mạnh, hay lam hay làm, trung thành tận tụy là tướng tốt cậu à. Ông mệ gả tui cho một người, nhà có của. Tui đội trầu cau trả lại, bị một trận tơi bời. Tui lấy ông nhà tui, khỏe, đẹp. Hồi kháng chiến, ông ra tận Khu 4 làm công an chi đó rồi về. Cái đận cháy nhà, vợ chồng lên rừng kiếm gỗ, ông vác hàng chục cây to xuống bến, xuôi về. Khỏe thật. Không may ông đi sớm, mình tui lo toan cho các con. Giờ chúng nó phương trưởng, an lành cả...
Tui dạy con cái bằng hò khoan. Trong hò khoan có hết cậu hí. Hát cần kiệm siêng năng thì mần ăn phải siêng năng cần kiệm; hát nhân ngãi nhân tình thì sống cho có tình có nghĩa; hát phụ từ tử hiếu thì sống cũng hiếu nghĩa vẹn tròn; hát thủy chung như nhất thì sống cũng phải bền lòng như một; hát đạo làm trai thì phải đáng nên trai… Như cậu đây hí! Cậu thấy đấy, mấy bữa ni mà coi. Có người hứa rồi lại bận. Có người đến thăm hỏi tận tình.
Ngày nay, người ta hát hay thiệt. Nhưng đó là hát thôi. Cũng có người như con gà tức nhau tiếng gáy ấy mà… Hát sao sống vậy mới là hò khoan Lệ Thủy đó cậu à".
Đợt tháng tám, tôi viết và dựng kịch bản Bài ca huyền thoại Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ban tổ chức yêu cầu cần thêm đoạn cảnh đi dân công hỏa tuyến chống Pháp có hát hò khoan. Trong nhà tôi, sách ca dao chống Pháp có đủ cả, có thể tìm để trích ra. Vả lại, viết mới một chùm câu hò cho ra không khí thời ấy, với tôi không khó lắm. Nhưng không yên tâm, thế là ba lô lên vai, tôi nhảy xe Hà Nội-Lệ Thủy về gặp bà giữa trưa ở quán cơm.
"Ngày xưa đi dân công, các o, các mệ hát thế nào?", tôi gợi hỏi bà.
Bà xởi lởi: "Hò hụi là nhất. Hò ri nầy:
"Hụi bơ hò hụi. Ấy hụi ta hò khoan là bớ hò khoan…/ Đánh Tây qua đất Quảng Bình/ U Bò mới trụt, Ba Rền lại leo/ Mấy o tiếp vận vượt đèo/ Miệng hò chân trụ quyết leo đến cùng/ Đói lòng ăn vả, ăn sung/ Thề cùng giặc Pháp không chung đội trời/ Câu hò gánh nặng càng vui/ Đèo cao thấp xuống cho người leo lên…/ Là hú là khoan…".
Quả thật, khi biểu diễn trên sân khấu, cảnh ấy rất thành công. Cũng may bỏ công về đến nơi nhờ bà chứ nếu tôi viết lời, chắc không thể nào đạt đến cái tinh nguyên, mộc mạc, khí thế như vậy.
Bà lưu giữ không biết bao nhiêu câu chuyện, lời ca của cả một vùng hò khoan nổi tiếng. Cuốn sổ của tôi dày thêm sau từng buổi gặp gỡ, trò chuyện.
Sống và sưu tầm gần bà, tôi đã đi đến tận cái nguồn mạch sâu xa của dân ca. Tôi được dạy dỗ nhiều không chỉ là các mái hò, cách hát mà là đạo sống làm người, làm khoa học và nghệ thuật. Người dân xưa họ không thuộc nhiều kinh nghĩa trường quy. Nuôi tâm hồn họ là phong tục, tập quán, là câu hát câu nói vần vè. Dân ca đối với họ là đạo đức, là lối sống, là một thứ đạo của dân gian dân dã.
Hát dân ca đã quý, đáng trân trọng. Hát dân ca hay lại càng đáng trân trọng hơn. Nhưng sống với cái đạo sống mà dân ca dạy mỗi khi ta cất lời thì đó mới là những nghệ nhân, nghệ sĩ đích thực, dù là giữa đời thường muôn nỗi gian lao. Chạm đến miền sâu thẳm đó là ta đã chạm đến căn cốt của một vùng dân ca.
Nhà nghiên cứu văn hóa NGUYỄN HÙNG VĨ