Để hiểu rõ hơn về hoạt động này, phóng viên Báo Quân đội nhân dân có cuộc trò chuyện với bác sĩ Đinh Thị Nhuận, Giám đốc dự án.
Phóng viên (PV): Mục tiêu chính của dự án là gì, thưa bà?
Bác sĩ Đinh Thị Nhuận: Mục tiêu chính của dự án là hướng đến tăng cường năng lực y tế công trong lĩnh vực KHHGĐ thông qua triển khai mô hình PSS-Public Sector Strengtherning (cải thiện năng lực của người cung cấp dịch vụ tại mạng lưới y tế tuyến cơ sở trong việc cung cấp dịch vụ KHHGĐ), như: Đặt dụng cụ tránh thai, cấy tránh thai, phòng, chống nhiễm khuẩn… Trong khuôn khổ hợp tác với Tổng cục Dân số-KHHGĐ, chúng tôi đã đề xuất cách tiếp cận là tăng cường năng lực y tế công. Thông qua dự án này sẽ giúp cho năng lực cung cấp dịch vụ của người cung cấp dịch vụ tuyến cơ sở, nhân viên y tế tuyến cơ sở được cải thiện; giúp cho người dân tiếp cận dịch vụ có chất lượng một cách thuận tiện hơn, nhất là đối với nhóm phụ nữ có thu nhập thấp, như công nhân các nhà máy trong khu công nghiệp, phụ nữ ở vùng sâu, vùng xa. Chúng tôi cũng giám sát thường xuyên các cơ sở y tế nhằm phát hiện những nhân viên, cán bộ y tế chưa có đủ năng lực cung cấp dịch vụ độc lập (mức năng lực 1) để hỗ trợ, giúp cải thiện kỹ năng chuyên môn. Hiện nay, MSVN có 11 phòng khám tại 9 tỉnh, thành phố: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Nha Trang, Nghệ An, Hà Tĩnh, Đồng Nai, Bình Dương, Cần Thơ.
    |
 |
Bác sĩ của dự án tư vấn cho công nhân về chăm sóc sức khỏe sinh sản-kế hoạch hóa gia đình. Ảnh: BẢO AN |
PV: Thưa bà, lý do xây dựng dự án và hiệu quả sau 3 năm triển khai tại Việt Nam ra sao?
Bác sĩ Đinh Thị Nhuận: Theo khảo sát được thực hiện bởi Tổng cục Dân số-KHHGĐ, rất nhiều phụ nữ tại các vùng nông thôn có nhu cầu sử dụng biện pháp tránh thai nhưng chưa được đáp ứng. Bên cạnh đó, các dịch vụ KHHGĐ chưa đáp ứng được nhu cầu của cộng đồng tại tuyến xã. 42,3% trạm y tế không thường xuyên thực hiện dịch vụ đặt vòng; 23% người cung cấp dịch vụ tuyến xã gặp khó khăn khi đặt dụng cụ tử cung do chưa được tập huấn đầy đủ; cơ cấu sử dụng phương tiện tránh thai chưa đa dạng... Việc thiếu hụt các phương tiện tránh thai trong chương trình dân số-KHHGĐ có thể dẫn tới tăng số phụ nữ mang thai hay số phụ nữ sinh con ngoài ý muốn; tăng số ca phá thai, tăng dân số. Ước tính tác động từ cung ứng dịch vụ và sản phẩm KHHGĐ chất lượng của dự án hợp tác này sẽ giúp ngăn ngừa hàng trăm nghìn ca mang thai ngoài ý muốn mỗi năm. Năm 2018, thông qua dự án đã có 1.090.830 lượt khách hàng được phục vụ; ngăn ngừa được 698.375 ca mang thai ngoài ý muốn; ngăn ngừa 191.335 ca phá thai không an toàn và 165 ca tử vong mẹ.
PV: Được biết, MSVN từng triển khai sáng kiến “Đối tác y tế với doanh nghiệp” nhằm nâng cao nhận thức và tăng cường tiếp cận các dịch vụ CSSK sinh sản và KHHGĐ cho phụ nữ thu nhập thấp ở các khu công nghiệp và vùng sâu, vùng xa, đạt hiệu quả tốt. Sắp tới, MSVN có tiếp tục triển khai sáng kiến này nữa không, thưa bà?
Bác sĩ Đinh Thị Nhuận: Bên cạnh tăng cường năng lực y tế công, từ năm 2005, MSVN đã triển khai sáng kiến “Đối tác y tế với doanh nghiệp” cho nhà máy và doanh nghiệp, đặc biệt là các nhà máy ở khu công nghiệp phía nam, như: Bình Dương, Đồng Nai, TP Hồ Chí Minh. Chúng tôi phối hợp với lãnh đạo các nhà máy triển khai chương trình tăng cường năng lực cho cán bộ y tế của nhà máy, truyền thông tăng cường nhận thức về sức khỏe sinh sản cho nữ công nhân, bao gồm các kiến thức: Tình dục an toàn, các biện pháp tránh thai, làm mẹ an toàn… Ngay trong năm 2019, chúng tôi sẽ mở rộng dịch vụ này tới các khu công nghiệp tại các địa phương: Hải Phòng, Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên. Qua khảo sát cho thấy, hiện nay kiến thức về CSSK sinh sản của nữ công nhân còn hạn chế. Chính vì vậy, lãnh đạo nhiều nhà máy rất mong được phối hợp để cung ứng dịch vụ CSSK sinh sản cho nữ công nhân, từ đó góp phần nâng cao năng suất lao động, giảm tỷ lệ nghỉ việc đi khám, chữa bệnh, cũng như giảm chi phí và thời gian đi khám chữa bệnh bên ngoài của nữ công nhân.
PV: Trân trọng cảm ơn bà!
DIỆP CHÂU (thực hiện)