Nội dung ký kết giữa hai tỉnh là gợi ý cho việc nghiên cứu xây dựng Quy chế thí điểm liên kết phát triển kinh tế-xã hội vùng Tây Bắc trong thời gian tới.
Trên tinh thần hợp tác và truyền thống quan hệ giữa tỉnh Tuyên Quang và tỉnh Hà Giang, tại thành phố Tuyên Quang, Đoàn đại biểu hai tỉnh Tuyên Quang, Hà Giang đã thảo luận, thống nhất ký kết Chương trình hợp tác giữa hai tỉnh.
Sau khi nghe báo cáo sơ bộ về tình hình kinh tế-xã hội năm 2016 của tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang, các ý kiến và nội dung thảo luận của các đại biểu, đồng chí Nguyễn Văn Bình phát biểu, ghi nhận những kết quả đạt được của hai tỉnh trong thời gian qua. Giai đoạn 2011-2015, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân năm của Hà Giang là 6,45%, Tuyên Quang là 7,8%; cơ cấu kinh tế dịch chuyển đúng hướng. Năm 2016 vừa qua, trong bối cảnh khó khăn chung của cả nước, hai tỉnh vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, an ninh chính trị được giữ vững, an sinh xã hội được bảo đảm. Bên cạnh sự ủng hộ, giúp đỡ của Trung ương, theo đồng chí Nguyễn Văn Bình, một trong những nguyên nhân quan trọng nhất là lãnh đạo hai tỉnh đã có sự sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, nỗ lực vượt khó.
Để triển khai thành công Chương trình liên kết, hợp tác giữa hai tỉnh, đồng chí Nguyễn Văn Bình lưu ý hai tỉnh:
Thứ nhất, cần cụ thể hóa thành các nội dung hợp tác với các Đề án rất cụ thể, bước đầu có thể là các Đề án thí điểm. Cần tuyệt đối tránh việc tổ chức liên kết mang tính hình thức, phong trào. Trên cơ sở các quy hoạch này cùng với các quy hoạch của các tỉnh lân cận vùng Tây Bắc, hai tỉnh cần nghiên cứu kỹ để đề xuất, cụ thể hóa các nội dung hợp tác trên cơ sở 5 lĩnh vực đã nêu trong Chương trình ký kết. Nội dung hợp tác cần có tầm nhìn rộng vượt ra khỏi địa giới hành chính của 2 tỉnh, đón đầu xu thế tất yếu các địa phương vùng Tây Bắc phải có sự liên kết để cùng phát triển trong thời gian tới, tránh manh mún, lợi ích cục bộ như hiện nay.
Trước hết và quan trọng nhất là cần hợp tác trong xây dựng, điều chỉnh quy hoạch tổng thể, quy hoạch ngành, lĩnh vực và hợp tác trong xây dựng kế hoạch 5 năm và hàng năm. Sau đó là hợp tác trong phát triển sản xuất, đầu tư kết cấu hạ tầng, hệ thống thông tin, giáo dục-đào tạo.
Thứ hai, cần tính toán kỹ các nguồn lực, đặc biệt nguồn lực về tài chính. Lưu ý, cần thực hiện thứ tự ưu tiên các chương trình, dự án liên kết, bảo đảm phù hợp với nguồn lực và điều kiện tự nhiên, văn hóa, xã hội của vùng và từng địa phương.
Trong điều kiện ngân sách cho đầu tư công hạn chế, việc liên kết cần chú trọng thiết lập cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia thực hiện quy hoạch, kế hoạch; phát huy vai trò liên kết công tư; huy động sự tham gia, phối hợp của các tổ chức hỗ trợ phát triển quốc tế về các chương trình, dự án liên kết trên địa bàn.
Thứ ba, cần xây dựng Quy chế thí điểm liên kết; có cơ chế đánh giá, kiểm tra, giám sát việc tổ chức liên kết; thực hiện phân công, phân nhiệm, phối hợp rõ ràng. Nên thành lập một Ban chỉ đạo và có Nghị quyết liên tỉnh, coi việc đó là việc của hai tỉnh. Ban Kinh tế sẽ giới thiệu một số mô hình để hai tỉnh nghiên cứu, tham khảo và lựa chọn cho mình mô hình phù hợp.
Thứ tư, cần phối hợp để vận động sự ủng hộ của Trung ương, các bộ, ngành, các tổ chức hỗ trợ phát triển quốc tế đối với các nội dung hợp tác, liên kết giữa 2 tỉnh.
Thứ năm, cần tổ chức tốt công tác truyền thông về các nội dung hợp tác liên kết để tạo sự đồng thuận, ủng hộ trong cộng đồng doanh nghiệp và người dân của 2 tỉnh. Là 2 tỉnh có nhiều đồng bào dân tộc, với văn hóa đa dạng, cần đặc biệt lưu ý yếu tố "sức mạnh mềm của văn hóa" trong xây dựng các nội dung liên kết cũng như trong vận động, tuyên truyền khi triển khai.
Hai tỉnh cần có cơ chế chỉ đạo sát sao để biến hợp tác thành hiện thực, tránh tình trạng liên kết hình thức; các nội dung công việc cần hướng tới chất lượng, không tham số lượng. Nếu kết quả hợp tác liên kết giữa hai tỉnh thành công sẽ nhân rộng mô hình ra cho khu vực Tây Bắc và cho cả nước.
Ghi nhận một số kiến nghị của hai tỉnh, đồng chí Nguyễn Văn Bình cho biết, sẽ có những chương trình làm việc với các bộ, ngành liên quan để tìm ra hướng giải quyết phù hợp và hiệu quả nhất. Đồng thời, đồng chí Nguyễn Văn Bình yêu cầu Ban Chỉ đạo Tây Bắc chủ trì, phối hợp với Ban Kinh tế Trung ương và các ban, bộ, ngành Trung ương, địa phương có liên quan (trực tiếp là Bộ Kế hoạch và Đầu tư) trên cơ sở đúc rút kinh nghiệm liên kết giữa một số tỉnh thuộc Tây Bắc sớm xây dựng Quy chế thí điểm liên kết phát triển kinh tế-xã hội vùng Tây Bắc giai đoạn 2017-2020 trình Thủ tướng Chính phủ (hiện nay, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quy chế thí điểm liên kết phát triển kinh tế-xã hội vùng Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2016-2020 tại Quyết định số 593/QĐ-TTg ngày 6 tháng 4 năm 2016). Đồng thời, Ban Kinh tế Trung ương phối hợp với Chương trình Khoa học và Công nghệ cấp quốc gia vùng Tây Bắc tổ chức nghiên cứu, đề xuất các cơ chế, chính sách cho phát triển liên kết vùng Tây Bắc trong thời gian tới.
QUỲNH MINH