Hiệu quả thấy rõ

Hiện cả nước có 235 trường đại học, cao đẳng, trong đó có 170 trường công lập và 65 trường ngoài công lập (không tính các trường thuộc khối an ninh, quốc phòng). Năm 2008, Trường Đại học Tôn Đức Thắng (TP Hồ Chí Minh) là trường đại học công lập đầu tiên thực hiện tự chủ về tài chính và đến năm 2015, trường được cho phép tự chủ toàn diện. Đến nay, nhà trường đã có 17 khoa chuyên môn với hơn 23.000 sinh viên và hơn 1.300 giảng viên, nhân viên (gần 45% có trình độ tiến sĩ trở lên), 58 đơn vị phòng, ban trực thuộc. Trong thời gian hoạt động theo cơ chế tự chủ của Chính phủ, Trường Đại học Tôn Đức Thắng đã phát triển vượt bậc và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. 100% sinh viên của trường tốt nghiệp đều có việc làm ngay trong năm đầu tiên.

TS Trần Đình Khôi Nguyên, Trường Đại học Kinh tế (Đại học Đà Nẵng) nhận định: Chất lượng đội ngũ ở các cơ sở thí điểm tự chủ đại học đều ở mức tương đối cao. Kết quả nghiên cứu mới đây cho thấy, tỷ lệ giảng viên có học hàm giáo sư và phó giáo sư chiếm 8,4% tổng số giảng viên của các trường đại học đã tự chủ; so với tỷ lệ bình quân chung trong toàn hệ thống giáo dục là 6%. Số lượng tiến sĩ ở các trường thí điểm tự chủ cũng tăng đáng kể.

leftcenterrightdel
Trường Đại học Tôn Đức Thắng (TP Hồ Chí Minh) đã thực hiện cơ chế tự chủ rất thành công. Ảnh: Hùng Khoa

Theo Thạc sĩ Lê Thị Bích Thuận, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội: Cơ chế tự chủ tài chính giúp trường thu hút, duy trì và quản trị được nguồn cán bộ có trình độ cao (kể cả nguồn cán bộ theo định biên tại chỗ và nguồn cán bộ, giảng viên cơ hữu, các chuyên gia, nhà khoa học…) phục vụ liên kết đào tạo chương trình sau đại học, nghiên cứu sinh. Tính đến năm 2018, trường đã đào tạo được 11 khóa với 122 nghiên cứu sinh, trong đó có 41 nghiên cứu sinh bảo vệ thành công luận án tiến sĩ; 1.711 học viên bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ.

TS Trần Tú Khánh, Vụ Kế hoạch Tài chính (Bộ Giáo dục và Đào tạo) cho biết, trong 23 cơ sở GDĐH được thí điểm giao tự chủ thì 12 trường có thời gian tự chủ hơn hai năm, 3 trường có thời gian tự chủ từ một đến hai năm, 5 trường có thời gian tự chủ dưới một năm và 4 trường mới được giao quyết định tự chủ từ tháng 7-2017. Tổng thu giai đoạn thí điểm tự chủ năm 2015-2016 là 7.765 tỷ đồng (không tính đầu tư xây dựng cơ bản), tăng 16,6% so với giai đoạn trước khi tự chủ năm 2013-2014 là 6.660 tỷ đồng. Với 10 trường thực hiện tự chủ hơn hai năm, quỹ hỗ trợ sinh viên tăng hơn 10 lần, từ 18 tỷ đồng trước tự chủ lên 186 tỷ đồng năm 2015-2016. Quỹ phúc lợi và quỹ ổn định thu nhập đều có xu hướng giảm xuống, tỷ lệ giảm tương ứng là -17% và -14%. Tổng trích lập quỹ cho sinh viên năm 2016-2017 của 12 trường tự chủ hơn hai năm lên tới 112 tỷ đồng.

Hiểu đúng để làm đúng

Thời gian qua, dù đạt được một số kết quả nhất định, song thực tế nhận thức về tự chủ GDĐH của cả cơ quan quản lý Nhà nước lẫn của các cơ sở đào tạo còn chưa đầy đủ, thống nhất. Phó tổng Kiểm toán Nhà nước Đoàn Xuân Tiên nhận định còn nhiều lỗ hổng trong thực hiện, xuất phát từ việc thiếu một cơ chế tự chủ rõ ràng, tường minh đối với các trường đại học công lập. Công tác kiểm toán trong lĩnh vực giáo dục-đào tạo hiện mới chú trọng kiểm tra đánh giá việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công, việc tuân thủ các quy định của Nhà nước trong chi ngân sách Nhà nước mà chưa đánh giá toàn diện, đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả đối với cơ chế tự chủ trong các trường đại học công lập.

Một số trường đại học quan niệm rằng tự chủ nghĩa là được tự do đưa ra quyết định và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của nhà trường, đặc biệt là trong việc huy động, tìm kiếm và sử dụng các nguồn lực về tài chính để đầu tư, phát triển. Trong đó chủ yếu là tăng quy mô nhằm tăng nguồn thu từ học phí mà chưa chú trọng đúng mức tới việc nâng cao các điều kiện bảo đảm chất lượng trong quá trình thực hiện tự chủ. Theo TS Phạm Tất Thắng, Phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, hoạt động tự chủ đại học của các trường đang chịu ảnh hưởng trực tiếp rất nhiều luật, nghị định của Chính phủ, các văn bản quy phạm pháp luật khác. Tuy nhiên, cơ sở pháp lý về tự chủ đại học chưa vững chắc và thiếu đồng bộ, còn có những quy định chưa phù hợp đối với quá trình vận hành của các trường theo hướng tự chủ.

Tại Hội thảo "Cơ chế tự chủ đối với các trường đại học công lập-Vấn đề đặt ra và vai trò của Kiểm toán Nhà nước" được tổ chức ngày 19-3, đại diện Trường Đại học Tôn Đức Thắng nhấn mạnh, do chưa có quy định cụ thể đối với tổ chức hành chính sự nghiệp công lập-với cơ chế tự chủ nên quá trình thẩm định thiết kế công trình xây dựng hạ tầng của trường cũng như một số thủ tục khác, cơ quan quản lý Nhà nước còn lúng túng. Vì vậy, đối với các trường đại học tự chủ cần xác định rõ tính chất nguồn vốn trong đầu tư xây dựng cơ bản; cấp thẩm quyền phê duyệt dự án đầu tư và tính pháp lý về đầu tư. Có như vậy nhà trường mới chủ động huy động, sử dụng hợp lý, hiệu quả nhất các nguồn lực của trường và xã hội (không sử dụng vốn ngân sách Nhà nước) để phát triển.

Theo TS Phạm Xuân Hoan, Trưởng ban Kế hoạch-Tài chính Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN), trong “trào lưu” tự chủ hiện nay, dường như đã có sự đánh đồng giữa tự chủ với tự lo về tài chính, làm ảnh hưởng tới mô hình phát triển ĐHQGHN. Ví dụ, mức trần học phí theo Nghị định số 86/2015/NĐ-CP tương đối thấp nên hầu hết các cơ sở GDĐH đều áp đặt mức trần, tức là áp dụng mức học phí bằng với học phí của ĐHQGHN. Trong khi đó, ĐHQGHN đào tạo rất bài bản nên phát sinh chi phí tương đối cao. Học phí giống nhau nhưng ĐHQGHN tập trung vào đào tạo các ngành khoa học cơ bản không hấp dẫn thị trường, với chi phí đào tạo cao hơn để bảo đảm chất lượng, đã tạo ra sức ép tài chính tương đối lớn cho nhà trường.

Có thể thấy, tự chủ đại học là xu thế tất yếu nhưng để triển khai hiệu quả cần có sự vào cuộc đồng bộ và mang tính hệ thống của tất cả bộ, ngành. Trong đó, vấn đề xây dựng thể chế, chính sách hỗ trợ đối với viên chức và người học, vấn đề minh bạch thông tin và việc tăng cường trách nhiệm giải trình của cơ sở GDĐH đóng một vai trò đặc biệt quan trọng.

HOÀNG GIANG - MAI HƯƠNG