Nhưng thường là hướng về một đối tượng chính như con đường trên bộ, trên biển. Có ý thức tổng hợp, khái quát không chỉ nói về một mà tới 5 con đường Trường Sơn, cùng một mục đích nhưng tính chất, phương thức hoạt động khác nhau thì trường ca "Trên con đường ấy, Trường Sơn" (NXB Văn hóa-Văn nghệ 2018) của Lê Quang Trang là đầu tiên. Đó là đường bộ, đường biển, đường hàng không, đường thủy, đường tiền. Những con đường này đã được lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại đánh giá đúng vị trí và khẳng định ý nghĩa. Sau chiến tranh, chúng ta được biết đường hàng không có điểm cuối là phi trường Pochentong ở Phnôm Pênh (Campuchia), đường sông cập cảng Sihanoukville, thành phố cảng mang tên Quốc trưởng Norodom Sihanouk, phía nam Campuchia. Hai con đường này cũng thật đặc biệt, rất bí mật và hết sức bất ngờ với đối phương, thường chở các sĩ quan cao cấp, các lãnh đạo kháng chiến, thuốc men và cả vũ khí… Còn “đường tiền” cũng thật tất yếu và ly kỳ, tất yếu vì làm gì cũng phải cần tiền, nhất là chúng ta phải chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược giàu có bậc nhất thế giới tư bản là đế quốc Mỹ. Ly kỳ ở cách chuyên chở hết sức bí mật, thật khó tưởng tượng theo logic thông thường. Phải có tiền để mua vũ khí tại chỗ, mua lương thực để trang trải, chi phí… cả để buôn bán và “làm giàu”. Một nhà thầu khoán giàu có, thân thiết với chính quyền ngụy rất có thể chỉ là vỏ bọc, còn bên trong lại là một tình báo viên xuất sắc… Qua đây càng thấy chúng ta đánh và thắng Mỹ không chỉ bằng máu, mồ hôi, nước mắt, mà còn bằng cả của cải, vật chất… Càng thấy miền Bắc hết lòng hy sinh vì miền Nam, càng thấy cả dân tộc này đoàn kết cùng chia sẻ, chịu đựng để hướng về ngày thống nhất. Lấy những chuyện ấy làm cái lõi sự thật rồi “trường ca hóa” nên có thể gọi đó là cách viết sử bằng thơ!
Trường ca là thể loại lưỡng tính, là truyện vì nó phải có “cốt” để người viết men theo mà “kể”, tâm sự, giãi bày. Là thơ vì đòi hỏi phải có cảm hứng mãnh liệt mà bền bỉ, có chiều sâu, phải có chất thơ ở tình điệu, chi tiết, ở lối miêu tả… Nên trường ca dễ viết mà khó hay, như đi trên dây vậy, nghiêng về truyện thì khô khan kể lể, nghiêng về thơ thì đuối và hụt hơi vì không neo được cảm xúc. Là người trong cuộc, từng trải qua bao gian khổ, từng vượt qua những “tọa độ chết” mà bom Mỹ rải thảm, từng sốt rét dọc đường Trường Sơn để vào Nam vừa cầm bút vừa cầm súng, nên với trường ca này, Lê Quang Trang như rút ruột nói ra những tâm sự chân thành thiết tha nhất. Thế nên tính chất “tự truyện” hiện lên rất rõ. Người ta tin anh kể là thật, vì ngay quãng đời anh neo gửi nơi Trường Sơn đã “bảo hiểm” cho lời kể ấy. Tác phẩm như là sự “bắc cầu” hôm qua và hôm nay. Hôm qua là cảm xúc nồng nàn, chân thật của một nhà thơ trẻ đang độ hăng say cống hiến cho lý tưởng chung. Hôm nay là sự khúc xạ qua trải nghiệm, chiêm nghiệm, được chắt lọc bởi kinh nghiệm của một người từng trải (tác giả từng làm báo, viết văn, làm thơ, từng là Chủ tịch Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh, Phó chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam).
Lê Quang Trang tái hiện bước hành quân của mình và đồng đội trên Trường Sơn: Rừng dưới chân ẩm ướt/ đầy trời pháo sáng reo/ tiếng máy bay rú rít trên đầu/ bãi khách người vào, người ra nhộn nhịp… Họ đi bằng ý chí, bằng nghị lực, niềm tin, họ tựa vào lịch sử và sức mạnh chính nghĩa của dân tộc để vượt qua tất cả. Trong đoàn quân ấy có cả những nghệ sĩ tình nguyện xa tháp ngà cô đơn/ để được trầm mình trong khói lửa. Chữ “trầm” nói rất đúng và đắt về tính chất xả thân của người nghệ sĩ sống cùng đời sống chiến tranh để sáng tạo những hình tượng nghệ thuật mang ý nghĩa lớn lao, xứng đáng với tầm vóc dân tộc. Giọng kể của truyện làm sống lại những chi tiết đặc biệt chỉ có thời chiến tranh, là vượt đá tai mèo, là vắt cắn, là rắn độc, là lũ cuốn, là chất độc da cam… và rất nhiều cái chết như lá rừng lả tả/ những thủ đoạn bạo tàn hung dữ/ kẻ thù đem ra thử suốt Trường Sơn…
Thực ra, những sự kiện một thời Trường Sơn được tái hiện ở trường ca này không mới, đã có nhiều ở các trường ca khác. Đóng góp rõ nhất của tác phẩm về mặt hình thức là sự dung hợp thể loại để tạo ra bản hòa tấu đa âm, đa thanh của truyện, của thơ, rồi là ghi chép, là tùy bút, là phóng sự điều tra, là tự truyện, hồi ký… Và có cả kịch, như miêu tả tính chất kịch tính căng thẳng đến nghẹt thở trên đường biển khi một tàu ta chuẩn bị nổ bom tự phá hủy bởi nhiều tàu địch vây quanh… Men theo các chi tiết, sự kiện dọc Trường Sơn là bám vào không gian vật lý để miêu tả, làm cho trường ca thiên về xu hướng hiện thực. Mạch thơ nhịp theo bước hành quân đi đến ngày chiến thắng là bám vào mạch cảm xúc của cả thời đại. Đứng vững trên hai chân hiện thực và cảm xúc, tác phẩm đã chuyển được cái tinh thần của cuộc sống vào bên trong câu chữ, tạo ra sự âm vang của nhiều giọng, của nhân vật trữ tình, của bạn bè, của từng miền quê, từng khoảnh rừng… lớn hơn là của đất nước, của lịch sử. Nhờ thế, trường ca vừa mang hơi thở đời sống, rất thật, vừa tái hiện sinh động không khí cả một thời đại anh hùng. Như lẽ tự nhiên của logic nghệ thuật, tác phẩm đạt đến độ đa dạng của sắc thái, có cả tráng ca, bi ca, tụng ca, hoan ca.
Thi phẩm nói gì với hôm nay? Nghệ thuật là tiếng nói của đời sống, nó sẽ giảm ý nghĩa khi không đặt ra được vấn đề liên hệ với hiện tại. Xin trích lại những câu mang tính tâm sự này để tự chúng nói lên điều đó: Nhớ ngày qua lại mong ước bao nhiêu/ thế hệ mới thêm một lần trở lại/ cùng chiêm nghiệm về một thời kỳ diệu/ cùng suy tư trên các nẻo rừng già/ chuyện hôm nay hòa lẫn chuyện hôm qua/ khơi gợi lại những ân tình nghĩa cả/ xanh như lá và nhiều như lá/ để đất nước mình có được hôm nay…!
NGUYỄN THANH TÚ