Những mùa nước nổi về, người dân quê tôi lùa trâu sang cánh đồng mênh mông để đến cái gò cao và rộng. Nơi đó có “ông Tháp” trầm ngâm ngó đồng hóa thành dâu bể. Bầy trâu sẽ ở đây ăn và nghỉ ngơi trong mấy tháng nước về. Ban đầu người ta sợ bầy trâu ngứa sừng, cọ vào “ông Tháp” thì động phạm đến sự thiêng liêng, chư thần sẽ quở phạt. Nhưng một điều lạ là bầy trâu không bao giờ đến gần tháp. Mấy đứa nhỏ len trâu chơi nghịch, lấy dây dàm kéo mũi trâu dắt lại, khi đến gần độ chục mét thì trâu nhất định không đi nữa, kéo cách mấy chúng vẫn không đi. Có người nói, chắc con trâu nó kỵ gạch đá cổ xưa; người khác lại nói, chắc là trâu có linh tính với sự linh thiêng nên không dám bất kính… Không ai lý giải rạch ròi được điều đó. Nhưng họ biết, “ông Tháp” vừa hiền, nhưng cũng rất thiêng…
Hồi chiến tranh, dân trong làng đổ xô chạy vào chùa. Họ nghĩ rằng đức Phật từ bi sẽ chở che cho họ. Nhưng súng đạn vô tình, lòng người vô đạo nên những ngôi chùa chỉ hai hôm đã bê bết máu, mùi tử khí bốc lên ngợp cả ngôi làng. Chúng tôi trở lại chiến trường, kề bên họng súng; nhìn sang “ông Tháp” nhắm mắt trầm ngâm, ẩn hiện trong lùm cây cối và mớ khói súng mà đau…
Chúng tôi được lệnh bám đồi. Có đêm nghe đạn bắn ào ào, nghe rừng vừa hét vừa nghi ngút cháy. Súng khạc lửa vào cánh rừng, vào cái tháp có gương mặt lúc nào cũng nhắm mắt, cười mỉm nhẹ, vô ưu.
Sau trận bị phục kích, chúng tôi lùi về sau một đoạn. Chỉ một đêm đó thôi mà ngọn đồi đã trống huơ, không một bóng cây nào. “ông Tháp” trơ ra trên ngọn đồi, rong rêu bám mặt “ông” cháy đen nghẹt như ai đó lấy sơn đen quét lên gương mặt tháp. Lúc đó chúng tôi không thấy đâu nụ cười của “ông”, cũng không thấy đâu đôi mắt nhắm hay đang mở trừng trừng.
Mấy hôm sau đó có mưa, mưa rơi rất đậm. Trận mưa đầu mùa như giận dữ, gầm gừ những tiếng sấm sét như uất hận, như nghẹn ngào rồi nhá lên những ánh sáng không màu nhưng làm bừng lên một khoảng trời xám ngắt. Những rong rêu chết đen chảy dài xuống chân tháp, xuống lưng đồi rồi chảy đi đâu... Chỉ còn trơ lại gương mặt “ông Tháp” mang màu gạch đỏ như đau đớn, như giận dữ.
Trận đánh trong mùa mưa diễn ra ác liệt. Đã có máu loang trên nền đất tưởng chừng như đã chết, đã có người ngã xuống khi tay vừa đụng nền của tháp uy nghiêm. Chúng tôi rút vào trong tháp, súng chĩa về phía những tên địch. Phía bên kia đạn bắn sang rát mặt tháp, nghe tiếng gạch đổ, gạch rơi mà lòng chúng tôi như thắt lại. Phải mất mấy tiếng đồng hồ sau chúng tôi mới giành được ngọn đồi. Địch đã bỏ chạy khi thấy từ đôi mắt tháp bắn về phía chúng những luồng đạn đỏ, rất đỏ…
Sáng đó, mặt trời vừa lên, vừa đủ ánh sáng nhìn thấy nhau, chúng tôi đã thấy gương mặt tháp đầy rẫy vết thương, nham nhở những viên gạch rơi trên mặt đồi. Chúng tôi đứng trơ ra nhìn “ông Tháp” mà nước đang ngập trong từng ánh mắt, nhưng nước mắt thì không rơi, cũng như những viên gạch cuối cùng trên ngọn tháp, dẫu đau thương đến mấy cũng bám trụ đến cùng, không bao giờ chịu chấp nhận đau thương, không bao giờ chịu khuất phục trước những tên hung ác.
Chúng tôi lại tiến lên, bình yên trận mạc trở về. Khi đi ngang “ông Tháp”, một người bạn đã gắn lên đôi môi tháp một nhúm đất nhỏ có vài cọng rong con. Mong sau "ông" nở nụ cười sau mùa đất chết. Và đất sẽ hồi sinh cùng với nụ cười của "ông".
Tôi vẫn giữ cho tôi hình ảnh “ông Tháp” uy nghiêm với nụ cười xanh màu rêu đầy sức sống. Nhưng cứ mỗi lần nhớ lại là mỗi lần thấy gương mặt tháp đỏ giận và đau thương hiện ra. Hai gương mặt cứ dày vò và dằn vặt lòng tôi mãi.
Năm nay tôi về quê làm cỏ mộ cho đồng đội và những người chết năm nào. Tôi ngó thấy cánh rừng trên đồi lên cao và xanh như những năm tuổi thơ của tôi từng thấy. Tôi rủ mấy đứa bạn cùng chiến trường năm xưa trở về bên ấy. Đứng trên đồi nay đã phủ cỏ xanh, hai lối đi lên tháp có hai hàng bông dại ra hoa nửa trắng nửa vàng. Tháp phủ rêu cổ kính. Gương mặt tháp y hệt như những năm thuở nhỏ của tôi, đôi mắt nhắm thiêng liêng, nụ cười mỉm nhẹ uy nghiêm. Tôi bước lại gần, rờ tay lên “ông Tháp”, cảm nhận thấy những vết đạn năm nào đã được phủ lên bằng một màu xanh mới. Tháp lại là “ông Tháp” của tuổi thơ tôi; ông vừa hiền vừa thiêng, vừa uy nghiêm vừa bình dị…
Tản văn của LÊ QUANG TRẠNG