Có thể coi tinh hoa văn hóa của một cộng đồng được lắng đọng trong lễ hội. Đó là một mã văn hóa đậm đặc các giá trị tinh thần mà nếu bóc tách các lớp vỏ hình thức, người ta sẽ tìm thấy cái lõi bản chất văn hóa. Ứng xử với lễ hội chính là ứng xử với các giá trị.
Vì tính phức tạp và đa dạng của đối tượng nên trên thế giới hiện nay có xu hướng tìm hiểu lễ hội bằng phương pháp liên ngành. Quan điểm sinh thái học xem xét sự thích nghi, hòa nhập của con người với tự nhiên, xã hội qua lễ hội. Sinh thái học tự nhiên nghiên cứu quan niệm về ứng xử với tự nhiên (cây cối, đất đai, mưa nắng...). Sinh thái học nhân văn xem xét quan hệ với xã hội (chống giặc ngoại xâm, giáo dục điều thiện...). Quan điểm này cho thấy hầu hết các lễ hội hướng con người hòa nhập và sống chung với môi trường lành mạnh. Con người không thể chi phối nhưng có thể lợi dụng tự nhiên để sống hài hòa với tự nhiên. Xu hướng chức năng luận lại coi lễ hội có chức năng điều hòa xã hội. Ví như các lễ hội về các sự kiện lịch sử giáo dục tinh thần yêu nước, tự chủ tự cường..., những lễ hội cầu may nuôi dưỡng khát vọng vươn lên... Xu hướng thực dụng lại chỉ nghiên cứu ảnh hưởng tốt xấu, hay dở của lễ hội tới các quan hệ đương đại mà bỏ qua các yếu tố lịch sử. Xu hướng được coi là khoa học và toàn diện nhất vẫn là phương pháp tiếp cận mác-xít với nguyên tắc biện chứng tìm hiểu mối quan hệ giữa tự nhiên và văn hóa, coi lao động là nguồn gốc của mọi văn hóa. Từ định hướng này, văn hóa học khẳng định lễ hội là một quá trình xã hội, là lĩnh vực hoạt động tinh tế, là sản phẩm văn hóa của con người.
Phạm trù lễ hội ngày càng được nhìn nhận sâu hơn về bản chất, được coi là thành tố cơ bản của văn hóa. Văn hóa thể hiện trình độ con người thì nhìn vào lễ hội sẽ thấy rõ trình độ người của một dân tộc, một nền văn hóa. Do vậy, các nước tiên tiến đều rất quan tâm đến việc bảo tồn, lưu giữ và phát triển lễ hội với quan điểm vừa đậm đà bản sắc, vừa có tinh thần nhân văn. Vì chỉ có như vậy lễ hội mới trở thành di sản văn hóa, thành tài sản quốc gia, mới gắn kết và gắn nối các cá nhân trong cộng đồng, mới có thể đi ra được với thế giới để đối thoại với các nền văn hóa khác, mới thu hút được khách du lịch...
Giới văn hóa gần như đồng thuận coi lễ hội là sự tổng hợp và khái quát cao đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng. Chủ thể lễ hội là nhân dân lao động, do vậy xem xét bảo lưu, loại bỏ, phát triển các yếu tố tiêu cực, tích cực đều phải căn cứ vào cái gốc chủ thể này. Lễ hội cổ truyền mang tính thiêng rất cao, nhưng trong suốt quá trình tiếp biến, nó thay đổi để thích ứng với thời đại. Do vậy, để nắm bắt được bản chất văn hóa, phải tìm về cội nguồn nguyên thủy của lễ hội rồi xuôi dòng thời gian tìm ra những nét phái sinh... Một đất nước giàu có lễ hội là một đất nước giàu có, đa dạng và cũng đậm bản sắc văn hóa. Phát huy hết giá trị văn hóa của lễ hội sẽ đem lại những ý nghĩa rất to lớn, là sự liên kết cộng đồng, hướng con người về nguồn cội, là sự cân bằng đời sống, là sự bảo tồn và trao truyền các giá trị, là sự hưởng thụ và sáng tạo văn hóa...
Việt Nam là đất nước của lễ hội, chưa nói tới vấn đề bảo tồn, phát huy bản sắc, ngay việc quản lý, điều chỉnh cho phù hợp với hoàn cảnh hôm nay là việc rất phức tạp, khó khăn. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, bài học chung của thế giới là lấy điểm tựa từ hai khái niệm gốc: Nhân văn và khoan dung. Nhân văn chú ý tới tính người, trình độ người của lễ hội. Lễ hội nào có yếu tố xa lạ, đi ngược lại tính người nên dần được loại bỏ... Khoan dung lại nhấn vào sự khác biệt, tôn trọng sự khác biệt, tức lễ hội phải rất riêng, phải nói được tâm hồn, tính cách, ước mơ, khát vọng của chủ thể văn hóa.
NGUYÊN THANH