Theo đánh giá của giới chuyên môn, đây là công ước rất quan trọng để phát triển văn hóa và nền công nghiệp văn hóa ở mỗi quốc gia.

Phát triển để khẳng định chủ quyền văn hóa

Ngành công nghiệp văn hóa đang phát triển năng động trên toàn cầu với ước tính tổng giá trị về kinh tế đạt hơn 2.250 tỷ USD, tạo ra việc làm cho hơn 30 triệu người tại nhiều quốc gia. Có thể thấy, bức tranh chung về công nghiệp văn hóa toàn cầu rất khả quan, giá trị kinh tế của sản phẩm dịch vụ văn hóa lớn, nhưng 95% tổng giá trị này tập trung ở các cường quốc, như: Nhật Bản, Mỹ, Anh, Pháp... Làm sao để các quốc gia đang phát triển như Việt Nam có chỗ đứng trong ngành công nghiệp này, không bị bỏ lỡ trong xu thế toàn cầu? Nhận thức được tầm quan trọng của Công ước 2005 với việc thúc đẩy phát triển công nghiệp văn hóa, Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên phê chuẩn công ước này.

leftcenterrightdel
 Tổ chức sự kiện chuyên nghiệp là yêu cầu cần có trong công nghiệp văn hóa. (Ảnh chụp tại Carnaval Hạ Long 2018).

Theo bà Nguyễn Phương Hòa, Phó cục trưởng Cục Hợp tác quốc tế (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), công ước là công cụ pháp lý nhằm phát huy sự đa dạng thông qua các biểu đạt văn hóa. Đây là công ước của thời kỳ hiện đại và tương lai khi đề cập đến những vấn đề như kỹ thuật số, công nghệ thông tin… Quan trọng hơn, công ước có mục tiêu và nguyên tắc chỉ đạo rõ ràng khẳng định chủ quyền về văn hóa của các quốc gia, tăng cường đoàn kết và hợp tác quốc tế, công nhận dịch vụ văn hóa, tôn trọng quyền con người và các quyền tự do cơ bản, chủ quyền, bình đẳng phẩm giá, tăng cường đoàn kết, phát triển bền vững…

Trên cơ sở những vấn đề và giải quyết vấn đề của Công ước 2005, theo PGS, TS Bùi Hoài Sơn, Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam: Từ trước tới nay có nhiều chiến lược, chính sách để phát triển văn hóa, hay những câu chuyện văn hóa. Tuy nhiên, vấn đề là làm thế nào để phát triển văn hóa thì chúng ta còn lúng túng. Công ước 2005 mở đường, gợi ý cho chúng ta để phát triển văn hóa, công nghiệp văn hóa, tôn trọng sự đa dạng văn hóa, giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về quyền của các nghệ sĩ, tầm quan trọng của sáng tạo, của khởi nghiệp với văn hóa của mỗi quốc gia… "Tôi không khẳng định chắc chắn các chiến lược về công nghiệp văn hóa, về quốc gia khởi nghiệp… của chúng ta xuất phát từ Công ước 2005 nhưng chắc chắn công ước này là nguồn cảm hứng đối với sự phát triển văn hóa ở Việt Nam", ông Sơn nói.

Thay đổi nhưng vẫn lúng túng về thể chế

Sau Công ước 2005, năm 2016, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Chiến lược này là bước tiến về thể chế cho các ngành công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo-vốn là khu vực rất mới mẻ ở Việt Nam. Đòn bẩy đã có, tiến trình thực hiện cũng bước đầu có thay đổi. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, mức độ thay đổi của Việt Nam chưa nhiều và toàn diện, nghĩa là mới có sự thay đổi trên giấy tờ ở cấp quốc gia, chúng ta cần sự lan tỏa ra cả các địa phương. Thêm nữa là chưa phải ở đâu, người nào cũng đã nhận thức đúng và đầy đủ tầm quan trọng của những điều Công ước 2005 hay chiến lược đã đề ra.

PGS, TS, chuyên gia văn hóa Lương Hồng Quang cho rằng, khi có chiến lược chúng ta lại lúng túng về các thể chế cụ thể. Trong khi thể chế giữ vai trò quan trọng trong công nghiệp văn hóa ở Việt Nam. Chúng ta nói tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khởi nghiệp nhưng các doanh nghiệp văn hóa chưa được định danh là loại gì, các quy định pháp lý được hưởng thuế như thế nào... Hiện cơ quan thuế vẫn xếp đây là doanh nghiệp bình thường, do đó các chính sách về công nghiệp văn hóa như vậy trở nên vô giá trị trên thực tiễn. Chúng ta cần chính sách thuế, chính sách ưu đãi, chính sách quỹ…

Để phát triển văn hóa ở Việt Nam và có những bước tiến phù hợp với Công ước 2005, PGS, TS Bùi Hoài Sơn cho rằng, thực tiễn thay đổi quá nhanh, việc quản lý xã hội càng ngày càng khó khăn, văn hóa cũng nằm trong bối cảnh đó. Các nhà quản lý văn hóa cũng phải thay đổi theo bối cảnh chung, không thể quản lý theo các phương thức truyền thống được nữa. Theo kinh nghiệm thế giới, ngành văn hóa cũng đã có chủ trương thay đổi để chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm. Theo đó, tất cả những gì pháp luật không cấm thì những người hoạt động trong ngành văn hóa và người dân đều được làm. Điều cần thiết hiện nay là cơ quan quản lý đưa ra một số nguyên tắc và tiến hành hậu kiểm nghiêm khắc, chặt chẽ, phạt thật nặng nếu vi phạm. Như vậy, mọi người đều được tự do sáng tạo khi ý thức được những nguyên tắc cần phải thực hiện và những người làm sai cũng chủ động ý thức về hậu quả mà họ sẽ phải nhận.

Bài và ảnh: LAN DỊU