Chiến dịch được chuẩn bị chu đáo và diễn ra từ ngày 16-9 đến 14-10-1950, thể hiện cuộc đấu trí, đấu lực rất căng thẳng, quyết liệt giữa ta và địch, trong đó với ta nổi bật là nghệ thuật tác chiến trong các trận then chốt.

Trước hết, chọn đúng mục tiêu đánh các trận then chốt. Trên cơ sở phân tích tình hình lực lượng và thế phòng thủ của địch, Bộ chỉ huy chiến dịch chọn Đông Khê (nay là thị trấn Đông Khê, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng) làm mục tiêu trận mở đầu, cũng là trận then chốt mở màn chiến dịch. Đây là một quyết định sáng suốt, táo bạo, bởi Đông Khê là mắt xích quan trọng nối liền với thị xã Cao Bằng (cách thị xã 45km về phía bắc) và với thị trấn Thất Khê (cách thị trấn 25km về phía nam). Nếu mất Đông Khê, tuyến phòng thủ đường số 4 sẽ bị chia cắt, thị xã Cao Bằng trở nên cô lập, buộc địch phải đưa quân đến ứng cứu Đông Khê, hoặc đón quân từ Cao Bằng rút về hỗ trợ. Như vậy, việc ta chọn Đông Khê, nơi địch “tương đối yếu, nhưng lại hiểm yếu”, vừa bảo đảm đánh chắc thắng trận mở đầu, vừa tạo điều kiện thuận lợi để đánh quân cứu viện, kéo hẳn địch ra khỏi công sự để tiêu diệt.

leftcenterrightdel
Tiểu đoàn sơn pháo 253 (Trung đoàn 174) làm lễ xuất quân tham gia Chiến dịch Biên giới 1950. Ảnh tư liệu.

Đầu tháng 10-1950, khi phát hiện binh đoàn Sác-tông bỏ thị xã Cao Bằng, theo đường tắt, qua Quang Liệt rút về điểm cao 477, hòng hợp quân với binh đoàn Lơ-pa-giơ ở Cốc Xá để về Thất Khê, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định tạm ngừng tiến công Thất Khê và chọn khu vực núi Cốc Xá thuộc xã Đức Xuân (cách Đông Khê 6km về phía tây nam) đánh trận then chốt thứ hai, nhằm tiêu diệt binh đoàn Lơ-pa-giơ. Tiếp đó, ta chọn khu vực điểm cao 477, xã Đức Xuân (cách Đông Khê 8km về phía tây nam), đánh trận then chốt thứ ba, nhằm tiêu hao, tiêu diệt binh đoàn Sác-tông. Như vậy, ta chọn Đông Khê, Cốc Xá, điểm cao 477 là nơi diễn ra các trận then chốt của chiến dịch.

Để bảo đảm đánh thắng quân địch tổ chức phòng ngự ở cụm cứ điểm Đông Khê, trận then chốt mở màn, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định tập trung binh lực, hỏa lực chiếm ưu thế hơn hẳn địch, trong đó bộ binh ta 9, địch 1; pháo binh ta 6, địch 1. Ngoài ra, ta còn bố trí một trung đoàn cách Đông Khê 4km về phía nam và 2 trung đoàn triển khai trận địa phục kích đánh viện binh địch từ khu vực Pác Khoang đến Chốc Ngà. Tiếp đó, tiến hành đánh trận then chốt thứ hai ở Cốc Xá, ta đánh quân địch ngoài công sự, nên tập trung binh lực, hỏa lực thấp hơn nhiều so với trận Đông Khê, với tỷ lệ ta 1,67, địch 1. Đến trận đánh then chốt thứ ba ở điểm cao 477, so sánh binh lực, hỏa lực giữa ta và địch, tỷ lệ ta so với địch còn ít hơn trận Cốc Xá, nhưng đủ sức đánh thắng địch. Thực tiễn chiến dịch cho thấy, trong các trận then chốt, tùy từng trận ta tổ chức và sử dụng binh lực, hỏa lực để tạo ưu thế hơn hẳn địch với quy mô và mức độ khác nhau, bảo đảm đủ sức để đánh từng trận theo kế hoạch và mục đích, yêu cầu đặt ra.

Sau thời gian chuẩn bị, 6 giờ ngày 16-9-1950, bộ đội ta nổ súng tiến công Đông Khê, đến 10 giờ ngày 18-9-1950, quân địch rút chạy, ta làm chủ trận địa. Trận Đông Khê đã đánh rất trúng, điểm đúng huyệt trọng yếu của địch, làm rung chuyển hệ thống phòng thủ đường số 4, uy hiếp phân khu Thất Khê và cô lập phân khu Cao Bằng, buộc địch phải rút binh đoàn Sác-tông khỏi thị xã Cao Bằng; đồng thời huy động binh đoàn Lơ-pa-giơ mở cuộc hành quân từ Thất Khê lên nhằm chiếm lại Đông Khê. Nắm được ý định của địch, ta kịp thời tổ chức lực lượng bao vây và chốt chặn ở Cốc Xá, không cho binh đoàn Lơ-pa-giơ chạy đến chờ hội quân với binh đoàn Sác-tông từ Cao Bằng rút về. Lúc 17 giờ ngày 5-10, ta nổ súng tiến công địch, đập tan nhiều đợt phản kích của địch ở Cốc Xá (trận then chốt thứ hai). 6 giờ ngày 7-10, ta làm chủ trận địa và chuyển sang truy kích, đến chiều ngày 8-10, diệt và bắt hầu hết quân địch ở Nà Cao, số còn lại buộc phải tháo chạy. Trong khi đó, binh đoàn Sác-tông cố gắng cơ động đến điểm cao 477 để hội quân với binh đoàn Lơ-pa-giơ và chờ quân cứu viện từ Thất Khê lên ứng cứu. Nắm bắt thời cơ, không cho địch thực hiện ý đồ đó, 7 giờ ngày 7-10, quân ta vận động tiến công mạnh vào đội hình quân địch ở điểm cao 477 (trận then chốt thứ ba). Quân địch rút chạy về Bản Ca bị ta chặn đánh, đến 17 giờ, ngày 7-10-1950, quân ta diệt và bắt toàn bộ quân địch, thu một số vũ khí, trang bị.

Chiến dịch Biên Giới đánh dấu bước trưởng thành của Quân đội ta, trong đó nổi bật là nghệ thuật chọn đúng mục tiêu, tập trung ưu thế binh lực, hỏa lực; nghệ thuật tác chiến trong trận then chốt, đánh điểm (tiêu diệt địch trong công sự ở Đông Khê), cũng như hai trận then chốt đánh viện (tiêu diệt địch ngoài công sự ở Cốc Xá, Điểm cao 477). Các trận then chốt Đông Khê, Cốc Xá, điểm cao 477 thực sự là nhân lõi đã góp phần quyết định tạo nên thắng lợi oanh liệt của Chiến dịch Biên Giới năm 1950.

Đại tá, TS DƯƠNG ĐÌNH LẬP