Chuyển biến rõ nét
Nhận thức được tầm quan trọng của rừng đối với phát triển kinh tế-xã hội, ổn định đời sống người dân các địa phương có rừng, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách nhằm quản lý, bảo vệ, phát triển rừng hiệu quả, bền vững như: Chỉ thị số 13-CT/TW ngày 12-1-2017 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý, bảo vệ, phát triển rừng; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành hàng chục nghị quyết, nghị định, quyết định về các chủ trương, chính sách trong lâm nghiệp, nhất là các giải pháp phát triển rừng.
Thống kê toàn quốc năm 2016, tổng diện tích rừng là 14.377.682ha, tăng 315.828ha so với năm 2015. Độ che phủ rừng đạt 41,19%, tăng 0,35% so với năm 2015. Dịch vụ môi trường rừng trở thành nguồn tài chính quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả bảo vệ và phát triển rừng, tăng thu nhập cho các chủ rừng, giảm áp lực chi ngân sách. Về tổng quát, diện tích rừng cả nước tiếp tục tăng lên, chủ trương xã hội hóa nghề rừng được hiện thực hóa, góp phần tạo việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện sinh kế cho người làm nghề rừng. Cùng với các địa phương, bộ, ngành, các đơn vị quân đội đã tích cực tham gia bảo vệ, quản lý và phát triển rừng, góp phần nâng độ che phủ rừng của cả nước cũng như giữ vững an ninh chính trị, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia.
Cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang tham gia trồng rừng ngập mặn ven biển tại xã Thụy Xuân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Ảnh: Lê Hiếu
Thượng tướng Nguyễn Phương Nam, Phó tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam khẳng định, chương trình phủ xanh đất trống, đồi núi trọc do các đơn vị quân đội thực hiện đã tạo thêm việc làm cho hàng chục nghìn lao động là nhân dân vùng sâu, vùng xa; góp phần giúp người dân ổn định cuộc sống, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo. Mặt khác, việc tạo dải rừng bằng những cây lâu năm có giá trị kinh tế cao dọc biên giới còn chính là lá chắn bảo vệ biên giới, bảo đảm an ninh quốc phòng. Bên cạnh đó, diện tích đất lâm nghiệp do đơn vị quân đội quản lý và thực hiện các dự án bảo vệ rừng chủ yếu nằm trên địa bàn đóng quân ở vùng sâu, vùng xa dọc tuyến biên giới, hải đảo... Vì vậy, quân đội tham gia thực hiện dự án trồng rừng theo chương trình trồng mới 5 triệu héc-ta rừng của Nhà nước là việc làm rất có ý nghĩa và đạt hiệu quả cao. Các đơn vị quân đội đến nay đã trồng mới, chăm sóc hơn 40.400ha rừng; bảo vệ 355.504 lượt héc-ta; khoanh nuôi tái sinh hơn 30.535ha.
Còn đó những bất cập
Dẫu đạt được những kết quả nhất định nhưng tình hình chặt phá rừng tự nhiên thời gian qua vẫn còn diễn biến phức tạp ở nhiều địa phương, nhất là một số vụ phá rừng có tính nghiêm trọng ở các tỉnh: Quảng Nam, Bình Định, Nghệ An... Tây Nguyên hiện vẫn là điểm nóng về vi phạm các quy định của Nhà nước trong bảo vệ, phát triển rừng. Diện tích rừng ởTây Nguyên tiếp tục giảm. Năm 2016, toàn vùng còn hơn 2,55 triệu héc-ta rừng, giảm hơn 3.170ha so với năm 2015. Trong 9 tháng qua, diện tích rừng bị thiệt hại tăng 5% so với cùng kỳ năm 2016, chiếm 53,7% tổng số diện tích rừng bị thiệt hại trên cả nước. Tại Điện Biên, 9 tháng qua, toàn tỉnh đã xảy ra 229 vụ phá rừng, lấn chiếm đất lâm nghiệp trái pháp luật với diện tích rừng bị phá là 195,6ha. Tại tỉnh Nghệ An, tình trạng một số hộ dân lén lút phá rừng để trồng rừng nguyên liệu vẫn xảy ra, trong khi các chính sách hỗ trợ cho người dân để thực hiện nhiệm vụ khoanh nuôi, bảo vệ rừng còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu cuộc sống của người dân. Các chính sách hỗ trợ cho công tác bảo vệ và phát triển rừng được ban hành nhưng còn chồng chéo dẫn đến việc triển khai tại địa phương còn nhiều bất cập, nguồn lực đầu tư cho phát triển rừng còn hạn chế.
Một trong những lý do được đa số các địa phương đưa ra lý giải về những khó khăn, bất cập trong công tác quản lý, phát triển rừng là lực lượng kiểm lâm mỏng, thiếu nguồn lực thực hiện... Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, trong điều kiện ngân sách Nhà nước có hạn, các lực lượng chức năng khó quản lý hết được địa bàn rộng lớn và địa hình phức tạp. Vì vậy, để bảo vệ và phát triển rừng bền vững thì trước hết phải phá bỏ tâm lý “rừng là của Nhà nước”, dẫn đến tình trạng "cha chung không ai khóc" mà cần huy động tối đa nguồn lực xã hội hóa, từ cộng đồng tham gia.
Tạo sinh kế bền vững cho người dân
Để khắc phục triệt để tình trạng chặt phá, nâng cao diện tích, chất lượng rừng, góp phần xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an ninh, trật tự..., nhất là khu vực biên giới, ngoài tạo điều kiện cho người dân an cư thì giải pháp thiết thực được nhiều địa phương đưa ra là giúp người dân nâng cao thu nhập, làm giàu từ việc nhận khoán trồng, chăm sóc, bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh rừng. Đại diện lãnh đạo UBND tỉnh Lai Châu cũng cho rằng, việc trồng rừng nên giao quyền chủ động cho địa phương triển khai theo đặc thù của mỗi tỉnh, còn các bộ chỉ nên quản lý theo hiệu quả đầu tư. UBND tỉnh Lai Châu đề nghị Chính phủ cho phép đưa diện tích đất có cây tái sinh ở trạng thái 1C vào hưởng dịch vụ môi trường rừng để khoanh nuôi, bảo vệ sau 3-5 năm sẽ thành rừng, đây là phương án rất có hiệu quả mà Lai Châu đang thực hiện. Bên cạnh đó, cho phép tỉnh thực hiện thí điểm sáp nhập các Ban quản lý rừng phòng hộ với hạt kiểm lâm để thu gọn đầu mối, tăng hiệu lực, hiệu quả trong việc bảo vệ rừng.
Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau Nguyễn Tiến Hải kiến nghị, Chính phủ cho phép trồng rừng ngập mặn khu vực ven biển thuộc phân khu bảo vệ nghiêm ngặt Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau nhằm thúc đẩy nhanh hơn việc phát triển rừng ven biển (theo quy định trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt không được tác động, trồng rừng). Mặt khác, cho phép Cà Mau thực hiện thí điểm mô hình luân canh trồng chuối trên rừng tràm: Đất rừng sau khi khai thác, sẽ trồng chuối trong 24 tháng và khi thu hoạch xong sẽ trồng lại rừng (theo quy định sau khi khai thác phải trồng lại rừng trong vòng 12 tháng).
Với sự vào cuộc chỉ đạo quyết liệt, sự thực hiện nghiêm túc của chính quyền các cấp tỉnh Lai Châu, tỷ lệ che phủ rừng đã tăng từ 41,7% năm 2011 lên 46,8% năm 2016. Mỗi năm, Lai Châu nâng độ che phủ rừng tăng 1%, cao hơn mức bình quân chung của cả nước (0,35% năm 2016). Để đạt được kết quả quan trọng này, theo đại diện lãnh đạo UBND tỉnh Lai Châu, sau khi được giao đất, các Ban quản lý rừng phòng hộ đã thực hiện hợp đồng khoán trồng rừng, khoanh nuôi tái sinh và bảo vệ rừng cho các hộ gia đình, cộng đồng thôn, bản để quản lý. Đến nay, 100% diện tích rừng trên địa bàn tỉnh đã được khoán cho các hộ gia đình và cộng đồng để quản lý, được hưởng chính sách chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng. Việc giao khoán đã tạo được mối quan hệ chặt chẽ, bảo đảm tính pháp lý, trách nhiệm và nghĩa vụ giữa các bên. Các thôn, bản được giao khoán bảo vệ rừng đã xây dựng quy ước, hương ước bảo vệ rừng, thành lập 1.010 tổ chuyên trách bảo vệ và phát triển rừng trên diện tích rừng của thôn, bản được giao quản lý, phân công ứng trực 24/24 giờ...
Như vậy, việc nhận khoán trồng, chăm sóc, bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh rừng chính là một trong những giải pháp quan trọng góp phần nâng độ che phủ và quản lý, phát triển rừng hiệu quả.
MINH MẠNH