Chênh lệch lớn đóng góp ngân sách Nhà nước

Kết quả tổng điều tra cho thấy, đến thời điểm 1-1-2017, cả nước có 517,9 nghìn DN, trong đó tổng số DN  hoạt động điều tra được là 505,1 nghìn DN và 12,86 nghìn DN đã đăng ký nhưng đang đầu tư, chưa đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong số DN có 10,1 nghìn DN lớn tăng 29,6% (tăng gần 2,3 nghìn DN) so với thời điểm 1-1-2012 và vẫn còn chiếm tỷ lệ khiêm tốn là 1,9%. Số DN nhỏ và vừa và siêu nhỏ là 507,86 nghìn DN, tăng 52,1% (tương đương 174 nghìn DN) so với thời điểm 1-1-2012 chiếm 98,1%. Trong đó, DN vừa là 8,5 nghìn DN, chiếm 1,6%; DN nhỏ là 114,1 nghìn DN, chiếm 22% và DN siêu nhỏ là 385,3 nghìn DN chiếm cao nhất với 74,4%.

Vốn bình quân trên một DN năm 2016 đạt 51,6 tỷ đồng, tăng 5,8 tỷ đồng/DN so với năm 2011. Trong đó, vốn bình quân trên một DN của loại hình DNNN ở mức cao nhất với 3000 tỷ đồng/DN, nhiều hơn 97,5 lần so với loại hình DN ngoài Nhà nước và 8,3 lần so với DN FDI.

Doanh thu thuần của khu vực DN năm 2016 đạt 17.858 nghìn tỷ đồng, tăng 71,6% (7.450 tỷ đồng) so với năm 2011, doanh thu thuần bình quân năm giai đoạn 2011-2016 tăng 11,4% (tương đương 1.400 nghìn tỷ đồng). Khu vực DN ngoài Nhà nước có doanh thu thuần tăng 78,8% (tương đương 4.402 nghìn tỷ đồng) so với năm 2011 và chiếm tỷ trọng cao nhất với 55,9% tổng doanh thu thuần của toàn bộ khu vực DN. Doanh thu thuần bình quân năm giai đoạn 2011-2016 khu vực này đạt cao nhất với 880,5 nghìn tỷ đồng (tăng 12,3%). Khu vực DN FDI có doanh thu thuần tăng mạnh nhất với 134,5% so với năm 2011, chiếm 27,4% tổng doanh thu thuần, doanh thu thuần bình quân năm đạt 560,7 nghìn tỷ đồng (tăng 18,6%), tuy nhiên lại thấp hơn khu vực DN ngoài Nhà nước. Tỷ trọng doanh thu thuần thấp nhất là khu vực DNNN chỉ chiếm 16,7%, doanh thu thuần của khu vực DN này tăng thấp nhất với 244 nghìn tỷ đồng (tăng 8,9%), doanh thu thuần bình quân năm tăng 1,7% (tương đương 48,8 nghìn tỷ đồng).

Khu vực DN FDI có hiệu suất sinh lời trên tài sản năm 2016 đạt cao nhất và vượt trội so với các loại hình DN khác với 6,9% (cao hơn so mức 4,8% của năm 2011), tiếp đến là khu vực DNNN đạt 2,6% (thấp hơn mức 3,2% của năm 2011) và thấp nhất là khu vực DN ngoài Nhà nước 1,4% (năm 2011 là 1,2%).

Hiệu suất sinh lời trên doanh thu (tính bằng tổng lợi nhuận trước thuế/tổng doanh thu) của toàn bộ khu vực DN năm 2016 đạt 4% (cao hơn mức 3,2% của năm 2011). DN FDI và DNNN là hai loại hình DN có tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu năm 2016 đạt khá cao với 6,7% và 6,6% (năm 2011 là 5,2% và 5,1%), các DN ngoài Nhà nước có tỷ suất sinh lời trên doanh thu đạt thấp nhất với 1,9% (năm 2011 là 1,5%).

Đáng chú ý, kết quả tổng điều tra cho thấy, trong năm 2016 mặc dù số lượng DNNN ít nhưng thuế và các khoản đã nộp ngân sách bình quân một DN của khu vực DNNN đạt cao nhất với 104 tỷ đồng/DN cao hơn rất nhiều so với DN FDI là 18 tỷ đồng/DN và DN ngoài Nhà nước là 1 tỷ đồng/DN.

Lách luật theo cách: Thành lập, giải thể, rồi lại thành lập

Kết quả đóng góp cho ngân sách Nhà nước của DNNN so với DN FDI và DN ngoài Nhà nước khác quá xa nhau dẫn tới một câu hỏi: Phải chăng, DN FDI và DN ngoài Nhà nước chấp hành pháp luật về thuế kém hơn DNNN?

Trước câu hỏi này, ông Phạm Đình Thúy, Vụ trưởng Vụ thống kê Công nghiệp (Tổng cục Thống kê), cho rằng, kết quả đóng góp ngân sách khác nhau khá xa giữa DNNN và hai loại hình còn lại là DN FDI và DN ngoài Nhà nước có thể là bởi các DN FDI thường hoạt động trong ngành công nghệ cao như máy tính, điện tử nên được hưởng chính sách thu hút về thuế, có những DN FDI được giảm 50% thuế thu nhập DN trong 3 năm mới đầu tư, trong khi lợi nhuận của ngành này cao.

Bà Lê Thị Duyên Hải, Vụ trưởng Vụ Kê khai và Kế toán thuế, Tổng cục Thuế thì cho rằng, DNNN đóng góp cho ngân sách cao hơn hẳn vì vừa phải đóng thuế và còn phải đóng cổ tức và lợi nhuận sau thuế do dùng vốn và tài sản của Nhà nước để sản xuất kinh doanh.

Tuy nhiên, ý này của bà Lê Thị Duyên Hải cũng chỉ đúng một phần. Đó là bởi theo kết quả điều tra, mặc dù nguồn vốn của khu vực DNNN chiếm tỷ trọng lớn song xét về cơ cấu lại chủ yếu là vốn vay, còn vốn chủ sở hữu của khu vực DNNN so với tổng nguồn vốn chỉ chiếm 23,2% trong khi tỷ lệ này của khu vực DN ngoài Nhà nước là 30,7% và của khu vực DN FDI là 39,6%. Như vậy, DNNN cũng chủ yếu phải đi vay vốn để sản xuất, kinh doanh.  

Thêm một ý nữa là về tuổi đời của DN, theo bà Lê Thị Duyên Hải, DNNN thường hoạt động ổn định trong nhiều năm, có thể tăng trưởng không quá nhanh nhưng ổn định. Trong khi đó, một bộ phận khá lớn DN FDI và DN ngoài Nhà nước có tuổi đời rất ngắn. Mà một DN thường phải sau 3-5 năm hoạt động mới bắt đầu có lãi và mới nộp thuế.

Như thế có thể thấy, nhiều DN chưa kịp thực hiện nghĩa vụ thuế đã vội vã "khai tử". Và có không ít các DN lại đăng ký mới theo một cái tên khác, nhưng vẫn với ngành nghề kinh doanh đó và lại được hưởng các ưu đãi thuế cho DN mới thành lập.

Ông Nguyễn Bích Lâm, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê cho rằng, hiệu quả của DN ngoài Nhà nước hiện nay chưa được bằng DNNN và DN FDI vì số lượng DN ngoài Nhà nước lớn, công nghệ lạc hậu, quy mô nhỏ. Theo nghiên cứu, quy mô DN khoảng 50-59 lao động thì sẽ có hiệu quả tốt nhất. Nhưng DN ngoài Nhà nước thì thường có quy mô lao động nhỏ hơn nhiều.

Nói đến tính hữu ích của một loại hình DN thì cần phải xem xét nhiều khía cạnh, trong đó có cả việc tạo ra công ăn việc làm. Về khía cạnh này thì DN FDI và DN ngoài Nhà nước đang tạo ra nhiều công ăn việc làm trong lúc DNNN đang giảm bớt từ việc cổ phần hóa và thoái vốn Nhà nước. Thế nhưng, cũng cần phải xem lại một số chính sách thuế để bảo đảm môi trường cạnh tranh công bằng hơn với giữa 3 loại hình DN. Cùng với đó, cũng cần phải có cơ chế, chính sách khuyến khích việc thể hiện trách nhiệm của DN. Những DN nào liên tục trong nhiều năm thể hiện trách nhiệm cao với xã hội, với đất nước qua đóng thuế, tạo công ăn việc làm với mức lương tốt... cần phải được hưởng các chính sách ưu đãi.  

HỒ QUANG PHƯƠNG