Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, trình bày Tờ trình dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ cho biết: Qua 5 năm thi hành, Luật Giáo dục đại học năm 2012 đã góp phần quan trọng vào quá trình phát triển giáo dục đại học Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế, tạo ra nhiều chuyển biến tích cực trong hệ thống giáo dục quốc dân nói chung và giáo dục đại học nói riêng. Kết quả đáng chú ý là, hệ thống các cơ sở giáo dục đại học đã phát triển đa dạng, phù hợp với yêu cầu, điều kiện của đất nước với 170 trường công lập, 60 trường tư thục và 5 trường có vốn đầu tư nước ngoài; đặc biệt, có 4 trường đại học có vốn đầu tư nước ngoài và 5 trường tư thục được thành lập trong giai đoạn này, góp phần phát triển giáo dục đại học ngoài công lập. Bên cạnh đó, các điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo, đặc biệt là đội ngũ giảng viên có trình độ tiến sĩ tăng từ 14% năm 2012 lên gần 23% năm 2017...

leftcenterrightdel
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ trình bày tờ trình. Ảnh: quochoi.vn.

Tuy nhiên, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ cho rằng, qua 5 năm thi hành, Luật Giáo dục Đại học năm 2012 đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập, trở thành những điểm nghẽn, là nút thắt trong quá trình thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học. Đáng chú ý, nhiều quy định liên quan đến chương trình, hình thức, phương thức, thời gian đào tạo, khối lượng kiến thức… chưa tương thích với nhau nên hạn chế trong liên thông, trao đổi sinh viên và cơ hội liên kết đào tạo giữa Việt Nam với nước ngoài. Các cơ sở giáo dục đại học chưa được tự chủ cao trong mở ngành đào tạo, liên kết, hợp tác quốc tế để phát triển các chương trình liên kết, cải tiến các chương trình đào tạo để tiệm cận chuẩn mực quốc tế, đáp ứng yêu cầu nhân lực của thị trường lao động trong và ngoài nước...

Nhấn mạnh việc ban hành Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục Đại học năm 2012 là quan trọng và cấp thiết, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ cho biết, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung 31 điều, bổ sung 2 điều mới, dự thảo Luật đã bao quát hầu hết các vấn đề cần sửa đổi, bổ sung, nhằm giải quyết những vấn đề vướng mắc, bức xúc của giáo dục đại học hiện nay.

Đáng chú ý, dự thảo luật đã sửa đổi, bổ sung Điều 32 và các nội dung liên quan tới tự chủ đại học ở một số điều khác nhằm tạo hành lang pháp lý cho các cơ sở giáo dục đại học phát huy tối đa nội lực trong thực hiện tự chủ; đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội, cạnh tranh lành mạnh để nâng cao chất lượng, hội nhập quốc tế.

Bên cạnh đó, dự thảo luật sửa đổi, bổ sung theo hướng xây dựng một số khái niệm tương đồng với quốc tế và các chuẩn cho giáo dục đại học như chuẩn chương trình, chuẩn giảng viên, chuẩn cơ sở giáo dục đại học… làm công cụ quản lý nhà nước, tạo không gian thống nhất trong toàn hệ thống giáo dục đại học Việt Nam, phù hợp với xu hướng quốc tế, bảo đảm chất lượng đào tạo, thúc đẩy việc công nhận văn bằng, tín chỉ giữa các trường trong khu vực và trên thế giới..

Dự thảo luật giao cho Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các quy định về hình thức đào tạo, xác định chỉ tiêu tuyển sinh, thời gian, chương trình, tổ chức và quản lý đào tạo, văn bằng chứng chỉ đối với lĩnh vực sức khỏe và một số lĩnh vực chuyên môn đặc thù như các trường thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, các trường đào tạo các ngành năng khiếu như thể dục, thể thao, nghệ thuật...

Thẩm tra dự án  luật, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội Phan Thanh Bình lưu ý đến việc tự chủ đại học. Chủ nhiệm Phan Thanh Bình cho rằng, việc đẩy mạnh tự chủ là cần thiết và phù hợp với xu thế chung của giáo dục đại học. Tuy nhiên, để việc thực hiện quyền tự chủ sớm đi vào thực tiễn, đa số thành viên Ủy ban đề nghị cần làm rõ hơn khái niệm tự chủ, nội hàm quyền tự chủ, khái niệm năng lực tự chủ; quy định chặt chẽ hơn ngay trong Luật về phạm vi, mức độ, điều kiện thực hiện quyền tự chủ phù hợp với năng lực của cơ sở giáo dục đại học và yêu cầu chi tiết về trách nhiệm giải trình; đồng thời, quy định trong Dự thảo Luật nguyên tắc pháp lý cần thiết nhằm tạo sự đồng bộ trọng hệ thống pháp luật về vấn đề tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học, đặc biệt là nguyên tắc liên quan đến công tác tổ chức – nhân sự, tài chính và tài sản. Ngoài ra, cân nhắc việc giao cho Chính phủ ban hành quy định chi tiết hướng dẫn tự chủ và trách nhiệm giải trình theo năng lực của cơ sở giáo dục vì điều này có thể sẽ làm chậm quá trình triển khai tự chủ trong thực tiễn.

Về phạm vi sửa đổi, đa số ý kiến thành viên Ủy ban tán thành với đề xuất rà soát toàn diện, song lựa chọn một số vấn đề cốt lõi để sửa đổi, bổ sung như Tờ trình của Chính phủ. Sửa đổi bổ sung một số điều nhưng phải bảo đảm hướng đến việc giải quyết đồng bộ và khả thi những hạn chế, bất cập của thực tiễn và thể chế hóa được chủ trương đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước và chất lượng giáo dục đại học; đẩy mạnh hội nhập quốc tế bằng những quy định mang tính nguyên tắc đặt nền móng cho việc sửa đổi toàn diện Luật.

Có ý kiến đề nghị nghiên cứu sửa đổi Luật Giáo dục Đại học một cách căn cơ hơn để thể chế hóa đầy đủ Nghị quyết 29 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu: Chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế.

THẢO NGUYÊN